Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 28/10/2022

19:45 | 28/10/2022

9,703 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Dầu của Nga tràn ngập các bến cảng châu Á; Mỹ đang xuất khẩu lượng dầu và chế phẩm dầu mỏ kỷ lục; Đại gia dầu khí Anh chấm dứt chuỗi kỷ lục lợi nhuận… là những tin tức nổi bật về thị trường năng lượng trong nước và quốc tế ngày 28/10/2022.
Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 28/10/2022
Nga đang chuyển hướng dòng chảy dầu nhiên liệu của mình sang châu Á. Ảnh minh họa: Energyintel

Dầu của Nga “tràn ngập” các bến cảng châu Á

Trong tuần lễ tính đến ngày 24/10, khoảng 1,1 triệu tấn HSFO của Nga đã được lưu trữ trên các tàu chở dầu ở gần những bến cảng lớn của châu Á. Bloomberg trích dẫn dữ liệu từ công ty phân tích thị trường năng lượng Vortexa cho biết khối lượng nhiên liệu trên các tàu chở dầu đã tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái.

Đây là một dấu hiệu cho thấy Nga đang chuyển hướng dòng chảy dầu nhiên liệu của mình sang châu Á trước khi lệnh cấm nhập khẩu của châu Âu chính thức có hiệu lực từ tháng 12 tới. Việc Nga xuất khẩu nhiều HSFO sang phía Đông hơn đã tác động lên giá dầu nhiên liệu tại khu vực này trong suốt đợt cao điểm của mùa hè, khi các nhà máy điện ở khu vực này nhiên liệu để đáp ứng nhu cầu làm mát.

Nhà phân tích Khasawneh giải thích xu hướng gia tăng nhập khẩu kỷ lục tại châu Á hiện nay là do khu vực này được xem như một thị trường thay thế chính cho ngành xuất khẩu dầu nhiên liệu của Nga. Số liệu sơ bộ cho tháng 10 cho thấy mức kỷ lục mới là 560.000 thùng/ngày, tăng gần 50% so với tháng 9.

Mỹ đang xuất khẩu lượng dầu và chế phẩm dầu mỏ kỷ lục

Mỹ đang xuất khẩu lượng dầu và chế phẩm dầu mỏ kỷ lục, ngay cả khi giá cả nhiên liệu trong nước đang căng thẳng. Cụ thể, xuất khẩu dầu thô và các sản phẩm dầu mỏ tinh chế của Mỹ đã tăng lên mức kỷ lục 11,4 triệu thùng/ngày vào tuần trước, theo dữ liệu được Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) công bố hôm 26/10.

Con số này cao hơn gần 2 triệu thùng/ngày so với tuần từ ngày 12 đến 17/10. Theo EIA, xuất khẩu dầu thô của Mỹ đạt 5,1 triệu thùng/ngày vào tuần trước và đây là mức cao kỷ lục. Đối với các sản phẩm dầu mỏ tinh chế, con số xuất khẩu là 6,3 triệu thùng/ngày, thấp hơn một chút so với mức kỷ lục 7 triệu thùng/ngày hồi đầu tháng 10.

Mỹ tiếp tục là nhà nhập khẩu dầu lớn, với các lô hàng dầu thô nhập khẩu trung bình 6,2 triệu thùng/ngày trong tuần trước từ các nước bao gồm Canada và Saudi Arabia. Một số thùng dầu này sẽ được xuất khẩu trở lại sau khi được tinh chế thành xăng hoặc dầu diesel.

Tổng thống Macron nhận định giá năng lượng ở Pháp sẽ tăng 15%

Tổng thống Pháp Emmanuel Macron hôm 26/10 cảnh báo giá năng lượng ở nước này sẽ tăng 15% vào đầu năm tới. “Giá điện và khí đốt sẽ tăng 15% trong những tháng đầu năm 2023”, Tổng thống Pháp cho biết , đồng thời nói thêm rằng các biện pháp của chính phủ giúp ngăn giá năng lượng tăng vọt. Theo Tổng thống Emmanuel Macron, giá điện và khí đốt "có thể đã tăng 100%, thì giờ chỉ là 15%".

Ông Emmanuel Macron cũng cam kết tiếp tục cung cấp viện trợ có mục tiêu cho các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương như sinh viên. Ông cũng tuyên bố ủng hộ việc điều chỉnh tiền lương trong khi lạm phát vẫn ở mức cao, cam kết sẽ hỗ trợ “hàng chục triệu euro” cho các doanh nghiệp.

Tương tự như nhiều nước châu Âu khác, Pháp đang phải vật lộn với giá năng lượng tăng cao và đối mặt với cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt. Tháng trước, Thủ tướng Elisabeth Borne công bố kế hoạch giảm thiểu tác động của lạm phát, phát tem phiếu năng lượng trị giá 100-200 euro/phiếu để hỗ trợ cho 12 triệu hộ gia đình vào cuối năm.

Đức khẳng định đoàn kết là giải pháp duy nhất cho khủng hoảng năng lượng EU

Phát biểu tại Athens nhân chuyến thăm Hy Lạp, Thủ tướng Đức Olaf Scholz ngày 27/10 khẳng định bất đồng về vấn đề giá năng lượng tại Liên minh châu Âu (EU) chỉ có thể giải quyết trên cơ sở đoàn kết. Ông Scholz nhấn mạnh mục tiêu chung nên là hạ giá năng lượng, Berlin phản đối áp trần giá khí đốt chung cho toàn khối.

Động thái của Đức dành 200 tỷ euro (200 tỷ USD) trợ giá khí đốt và từ chối cân nhắc áp trần giá năng lượng toàn khối đã khiến Pháp và một số nước khác trong EU không bằng lòng. Mâu thuẫn này đã cản trở các nỗ lực của các Bộ trưởng Năng lượng EU nhằm tìm ra cách điều phối chi phí sản xuất điện trong khối. Đây là vấn đề gây áp lực trong bối cảnh EU chật vật vì lạm phát tăng phi mã do giá năng lượng tăng cao.

Tuần trước, các nhà lãnh đạo EU đã nhất trí lộ trình giảm giá năng lượng, giao Ủy ban châu Âu (EC) và các bộ trưởng xây dựng các đề xuất chi tiết được các nước thành viên chấp thuận. Về vấn đề này, ông Sholz cho rằng các Bộ trưởng năng lượng EU còn rất nhiều việc phải làm nhưng tin tưởng sẽ tìm ra giải pháp giúp kiềm chế tình trạng tăng giá khí đốt.

WB nhận định kế hoạch áp giá trần dầu Nga khó thành công

Trong báo cáo về triển vọng thị trường dầu được công bố ngày 26/10, Ngân hàng Thế giới cho biết: “Giới hạn giá dầu mà G7 đề xuất có thể ảnh hưởng đến dòng chảy dầu từ Nga, nhưng đây là một cơ chế chưa được thử nghiệm và sẽ cần sự tham gia của các thị trường mới nổi lớn cũng như các nền kinh tế đang phát triển để đạt được mục tiêu”.

Báo cáo nói thêm rằng dù sự gián đoạn đối với lĩnh vực xuất khẩu của Nga có thể xảy ra trong một thời gian ngắn do các tuyến đường thương mại bị ảnh hưởng, "nhưng những chủ thể tham gia thị trường vẫn có thể tìm cách để lách lệnh trừng phạt, như thường xảy ra với các đợt trừng phạt khác".

Theo kế hoạch, các công ty ngân hàng, bảo hiểm và vận tải biển sẽ bị cấm cung cấp dịch vụ cho các công ty Nga bán dầu với giá cao hơn mức trần. Ngày 5/12 sẽ đánh dấu thời hạn Liên minh châu Âu (EU) cấm tất cả các hoạt động nhập khẩu dầu thô Nga bằng đường biển. Đáp lại, Nga cho biết nước này sẽ không xuất khẩu dầu sang các nước tham gia áp giới hạn giá trần.

Đại gia dầu khí Anh chấm dứt chuỗi kỷ lục lợi nhuận

Tập đoàn Shell của Anh vừa công bố thu nhập quý III hôm 27/10. Lợi nhuận lọc dầu sụt giảm và mảng kinh doanh khí đốt yếu kém hơn đã khiến lợi nhuận của gã khổng lồ dầu khí Anh lao dốc hơn 2 tỷ USD so với quý trước.

Cụ thể, thu nhập sau khi điều chỉnh trong quý III của Shell đạt 9,45 tỷ USD, thấp hơn một chút so với dự báo 9,5 tỷ USD của các nhà phân tích được Refinitiv khảo sát. Con số này cao hơn mức 4,1 tỷ USD vào cùng kỳ năm ngoái, nhưng giảm mạnh so với kỷ lục 11,5 tỷ USD trong quý II.

Shell cho biết nguồn cung toàn cầu phục hồi đã góp phần làm giảm tỷ suất lợi nhuận lọc dầu trong quý III. Cùng với đó, thu nhập từ kinh doanh khí đốt cũng lao dốc. Giá dầu thô thế giới đã giảm mạnh trong những tháng qua. Đến nay, dầu Brent chuẩn toàn cầu được giao dịch quanh mức 95,6 USD/thùng, giảm mạnh so với mức cao trong năm nay, được thiết lập hồi tháng 3.

Tập đoàn năng lượng Đức phá hủy turbine điện gió để khai thác mỏ than

Theo đài RT (Nga), quyết định đầy nghịch lý này đi ngược lại với chính sách xanh của Đức. Với 1 turbine tại trang trại điện gió Keyenberg ở bang North Rhine-Westphalia đã ngừng hoạt động, chính quyền địa phương đã thúc giục Công ty Năng lượng RWE đảo ngược kế hoạch loại bỏ 2 turbine nữa.

Sau khi lên nắm quyền vào tháng 12/2021, Chính phủ của Thủ tướng Olaf Scholz đã công bố chương trình đầy tham vọng nhằm chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang các nguồn năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, những kế hoạch này đã bị đình trệ khi giá khí đốt tăng vọt, nguồn cung khí đốt thiếu hụt.

Trong nỗ lực đảm bảo an ninh năng lượng, vào cuối tháng 9, nhà chức trách Berlin đã yêu cầu hồi sinh các mỏ than nâu đã ngừng hoạt động. Việc loại bỏ dần các nhà máy nhiệt điện than cũng được hoãn lại cho đến tháng 3/2024. Tuy nhiên, hôm 25/10, Bộ Kinh tế và Năng lượng bang North-Rhine Westphalia kêu gọi RWE đảo ngược kế hoạch loại bỏ các trang trại điện gió.

Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 27/10/2022Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 27/10/2022
Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 26/10/2022Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 26/10/2022

T.H (t/h)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 113,500 ▼3500K 117,500 ▼2500K
AVPL/SJC HCM 113,500 ▼3500K 117,500 ▼2500K
AVPL/SJC ĐN 113,500 ▼3500K 117,500 ▼2500K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,300 ▼180K 11,460 ▼300K
Nguyên liệu 999 - HN 11,290 ▼180K 11,450 ▼300K
Cập nhật: 19/04/2025 10:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.000 ▼2000K 116.000 ▼1000K
TPHCM - SJC 113.500 ▼3500K 117.500 ▼2500K
Hà Nội - PNJ 112.000 ▼2000K 116.000 ▼1000K
Hà Nội - SJC 113.500 ▼3500K 117.500 ▼2500K
Đà Nẵng - PNJ 112.000 ▼2000K 116.000 ▼1000K
Đà Nẵng - SJC 113.500 ▼3500K 117.500 ▼2500K
Miền Tây - PNJ 112.000 ▼2000K 116.000 ▼1000K
Miền Tây - SJC 113.500 ▼3500K 117.500 ▼2500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.000 ▼2000K 116.000 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - SJC 113.500 ▼3500K 117.500 ▼2500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.000 ▼2000K
Giá vàng nữ trang - SJC 113.500 ▼3500K 117.500 ▼2500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.000 ▼2000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.000 ▼2000K 116.000 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.000 ▼2000K 116.000 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.000 ▼1500K 114.500 ▼1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.890 ▼1490K 114.390 ▼1490K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.180 ▼1490K 113.680 ▼1490K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.960 ▼1480K 113.460 ▼1480K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.530 ▼1120K 86.030 ▼1120K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.630 ▼880K 67.130 ▼880K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.280 ▼630K 47.780 ▼630K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.480 ▼1380K 104.980 ▼1380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.500 ▼910K 70.000 ▼910K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.080 ▼970K 74.580 ▼970K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.510 ▼1020K 78.010 ▼1020K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.590 ▼560K 43.090 ▼560K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.440 ▼490K 37.940 ▼490K
Cập nhật: 19/04/2025 10:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,070 ▼250K 11,690 ▼150K
Trang sức 99.9 11,060 ▼250K 11,680 ▼150K
NL 99.99 11,070 ▼250K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,070 ▼250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,300 ▼250K 11,700 ▼150K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,300 ▼250K 11,700 ▼150K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,300 ▼250K 11,700 ▼150K
Miếng SJC Thái Bình 11,350 ▼350K 11,750 ▼250K
Miếng SJC Nghệ An 11,350 ▼350K 11,750 ▼250K
Miếng SJC Hà Nội 11,350 ▼350K 11,750 ▼250K
Cập nhật: 19/04/2025 10:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 19/04/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 19/04/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 19/04/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 19/04/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 19/04/2025 10:00