Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 27/1/2023

20:53 | 27/01/2023

13,896 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Sản lượng điện tiêu thụ trong dịp Tết Nguyên đán 2023 giảm hơn 30%; Nhiều công ty điện của Nhật Bản tìm cách tăng giá; Libya, Italy đạt thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực dầu khí… là những tin tức nổi bật về thị trường năng lượng trong nước và quốc tế ngày 27/1/2023.
Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 27/1/2023
Mức tiêu thụ điện trên cả nước trong dịp Tết Quý Mão 2023 giảm 30,3% so với ngày thường của tuần trước Tết. Ảnh: BD

Sản lượng điện tiêu thụ trong dịp Tết Nguyên đán 2023 giảm hơn 30%

Theo số liệu từ Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia, trong kỳ nghỉ Tết Nguyên đán 2023 từ ngày 20-26/1/2023 (tức từ 29/12/2022 - 5/1/2023 âm lịch), công suất tiêu thụ điện cao nhất của toàn hệ thống điện quốc gia bình quân ngày chỉ ở mức khoảng 24.300 MW, sản lượng tiêu thụ điện bình quân ngày ở mức khoảng 440,6 triệu kWh/ngày.

Số liệu thống kê cho thấy, mức tiêu thụ điện trên cả nước trong dịp Tết Quý Mão 2023 giảm 30,3% so với ngày thường của tuần trước Tết. Đồng thời, mức tiêu thụ điện bình quân ngày trong dịp Tết Quý Mão 2023 cũng thấp hơn cùng kỳ dịp Tết Nhâm Dần 2022 khoảng 9,2%.

Như đã dự báo trước đó, nhu cầu tiêu thụ điện toàn quốc vào dịp Tết Nguyên đán đã giảm thấp đáng kể so với ngày thường. Theo số liệu thống kê thực tế, trong kỳ nghỉ Tết Quý Mão công suất tiêu thụ điện toàn quốc vào giờ thấp điểm trưa đã giảm ở mức còn khoảng 15.500 MW, giờ thấp điểm đêm chỉ còn khoảng 13.600 MW, tương ứng mức khoảng 60% so với ngày bình thường.

Nhiều công ty điện của Nhật Bản tìm cách tăng giá

Hầu hết các công ty điện lực lớn của Nhật Bản đã tìm cách tăng giá điện thêm khoảng 30% đến hơn 40% cho năm tài chính tiếp theo, trong một động thái có thể sẽ làm tăng thêm gánh nặng chi phí cho các hộ gia đình.

7 trong số 10 công ty điện lực lớn nhất Nhật Bản đã nộp đơn lên bộ ngành liên quan để tăng giá điện theo quy định cho các hộ gia đình, vốn cần có sự chấp thuận của chính phủ. Trong số 10 công ty, 9 công ty dự báo sẽ lỗ ròng trong năm tài chính hiện tại tính đến tháng 3/2023 do giá khí đốt và than cần thiết cho các nhà máy nhiệt điện tăng lên.

Trong bối cảnh đó, chính phủ sẽ bắt đầu trợ cấp cho các công ty điện lực để họ có thể giảm khoảng 20% hóa đơn tiền điện của các hộ gia đình từ tháng 1/2023 đến hết mùa hè. Tuy nhiên, mức tăng giá mà các công ty yêu cầu có thể nhiều hơn mức trợ cấp, giáng một đòn khác vào người tiêu dùng.

Libya, Italy đạt thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực dầu khí

Tập đoàn Dầu khí quốc gia (NOC) Libya ngày 25/1 thông báo đã đạt được thỏa thuận trị giá 8 tỷ USD với Tập đoàn Năng lượng ENI của Italy để phát triển các cơ sở khai thác hydrocarbon ở ngoài khơi.

Theo người đứng đầu NOC, Farhat Bengdara, thỏa thuận trên nhằm phát triển lĩnh vực dầu mỏ và khí đốt, trong đó xây dựng 2 cơ sở ở ngoài khơi với công suất có thể đạt tổng cộng hơn 24 triệu m3 khí đốt mỗi ngày.

Trước đó, hồi tháng 12/2022, NOC đã kêu gọi các công ty nước ngoài trong lĩnh vực khai thác hydrocarbon nối lại hoạt động sau khi đánh giá tình hình an ninh và ghi nhận sự cải thiện lớn tại một số địa điểm mà vấn đề an ninh vốn gây khó khăn cho hoạt động sản xuất.

Hungary sẽ phủ quyết biện pháp trừng phạt hạt nhân Nga của EU

Phát biểu với Đài phát thanh nhà nước ngày 27/1, Thủ tướng Viktor Orban cho biết, Hungary sẽ phủ quyết bất kỳ biện pháp trừng phạt nào của Liên minh châu Âu (EU) đối với Nga liên quan đến năng lượng hạt nhân.

Trước đó, ngày 23/1, theo đài RT, tại một cuộc họp báo ở Brussels sau cuộc họp của các bộ trưởng ngoại giao EU, Ngoại trưởng Hungary Peter Szijjarto cho hay, hợp tác với Nga về năng lượng hạt nhân là điều cần thiết với Hungary và Budapest sẽ phản đối bất kỳ đề xuất nào đưa ra các biện pháp trừng phạt về mối quan hệ đối tác này.

Ông Peter Szijjarto nhấn mạnh: “Chúng tôi sẽ không bao giờ chấp nhận một quyết định nào nhằm hạn chế hợp tác hạt nhân với Nga, dù nhỏ đến đâu, vì nó sẽ gây nguy hiểm cho an ninh năng lượng quốc gia của chúng tôi". Nhà ngoại giao hàng đầu Hungary cho biết thêm, một số quốc gia thành viên EU ủng hộ ý tưởng trừng phạt với lĩnh vực hạt nhân của Nga nhưng Hungary sẽ không chấp nhận.

Người đứng đầu Nord Stream khẳng định Nga không phá hoại đường ống dẫn khí đốt

Trong bài phỏng vấn của tờ báo Đức Die Zeit ngày 26/1, ông Matthias Warnig - người đứng đầu Nord Stream AG và Nord Stream 2 AG khẳng định Nga không có khả năng đứng sau vụ tấn công vào tháng 9 năm ngoái nhằm vào đường ống dẫn khí đốt Nord Stream.

Khi được hỏi liệu chính quyền Anh có thể đứng đằng sau vụ việc hay không, ông chủ Nord Stream gọi đó là "sự suy đoán" và đề nghị nhà báo "hãy suy nghĩ về điều đó" cẩn thận.

Khi 2 đường ống bị hư hại, các quan chức phương Tây đã nhanh chóng đổ lỗi cho Nga về vụ việc. Đáp lại, Moscow gọi vụ phá hoại đường ống Nord Stream là một "hành động khủng bố" và cáo buộc Mỹ đứng sau. Hiện chưa có kết quả điều tra chính thức và không có nghi phạm nào được xác minh.

Indonesia lên kế hoạch triển khai sàn giao dịch tín chỉ carbon để giảm phát thải

Ngày 24/1, quan chức Bộ Năng lượng và Tài nguyên khoáng sản (ESDM) Mohamad Priharto Dwinugroho cho biết: “Hạn ngạch sẽ được ấn định chậm nhất vào ngày 31/1. Sau khi đạt được hạn ngạch, các doanh nghiệp được yêu cầu tiến hành giao dịch tín chỉ carbon”.

Theo ông Dadan Kusdiana, một quan chức cấp cao khác thuộc ESDM, giai đoạn đầu tiên của kế hoạch giao dịch tín chỉ carbon sẽ quy tụ các nhà máy điện than có công suất tối thiểu 100 MW được kết nối trực tiếp với lưới điện thuộc sở hữu của công ty quốc doanh Perusahaan Listrik Negara (PLN). Số liệu của ESDM cho thấy 99 nhà máy điện than với tổng công suất lắp đặt 33,6 GW có thể tham gia giao dịch tín chỉ carbon trong năm nay.

Các nhà máy điện thải ra lượng carbon nhỏ hơn mức hạn ngạch của mình có thể tiến hành giao dịch phần còn lại với các nhà máy có lượng khí thải vượt hạn ngạch. Các công ty không giao dịch tín chỉ carbon sẽ được cấp hạn ngạch phát thải thấp hơn vào năm tới.

T.H (t/h)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,000 ▲800K 120,000 ▲800K
AVPL/SJC HCM 118,000 ▲800K 120,000 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 118,000 ▲800K 120,000 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,020 ▲50K 11,300 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 11,010 ▲50K 11,290 ▲50K
Cập nhật: 13/05/2025 15:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
TPHCM - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Hà Nội - PNJ 112.500 115.000
Hà Nội - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Đà Nẵng - PNJ 112.500 115.000
Đà Nẵng - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Miền Tây - PNJ 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Miền Tây - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.500
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.800 ▲500K 115.300 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.690 ▲500K 115.190 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.980 ▲500K 114.480 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.750 ▲500K 114.250 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.130 ▲380K 86.630 ▲380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.100 ▲290K 67.600 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.620 ▲210K 48.120 ▲210K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.760 105.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.680 70.180
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.270 74.770
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.710 78.210
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.700 43.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.530 38.030
Cập nhật: 13/05/2025 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,090 ▲50K 11,540 ▲50K
Trang sức 99.9 11,080 ▲50K 11,530 ▲50K
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,850
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,300 ▲50K 11,600 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,300 ▲50K 11,600 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,300 ▲50K 11,600 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 11,850 ▲150K 12,050 ▲130K
Miếng SJC Nghệ An 11,850 ▲150K 12,050 ▲130K
Miếng SJC Hà Nội 11,850 ▲150K 12,050 ▲130K
Cập nhật: 13/05/2025 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16110 16377 16951
CAD 18054 18329 18946
CHF 30135 30509 31153
CNY 0 3358 3600
EUR 28214 28480 29510
GBP 33448 33835 34771
HKD 0 3199 3401
JPY 168 173 179
KRW 0 17 18
NZD 0 14967 15556
SGD 19368 19648 20173
THB 697 760 813
USD (1,2) 25688 0 0
USD (5,10,20) 25726 0 0
USD (50,100) 25754 25788 26130
Cập nhật: 13/05/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,790 25,790 26,150
USD(1-2-5) 24,758 - -
USD(10-20) 24,758 - -
GBP 33,792 33,883 34,780
HKD 3,273 3,283 3,383
CHF 30,320 30,415 31,250
JPY 172.06 172.37 180.06
THB 741.37 750.53 803
AUD 16,301 16,360 16,802
CAD 18,319 18,377 18,874
SGD 19,568 19,629 20,240
SEK - 2,602 2,694
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,801 3,932
NOK - 2,444 2,530
CNY - 3,567 3,665
RUB - - -
NZD 14,874 15,012 15,443
KRW 17.06 17.79 19.1
EUR 28,394 28,417 29,632
TWD 773.78 - 936.8
MYR 5,593.95 - 6,313.23
SAR - 6,807.61 7,165.5
KWD - 82,156 87,497
XAU - - -
Cập nhật: 13/05/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,760 25,770 26,110
EUR 28,231 28,344 29,444
GBP 33,594 33,729 34,696
HKD 3,263 3,276 3,382
CHF 30,184 30,305 31,204
JPY 171.27 171.96 179
AUD 16,251 16,316 16,845
SGD 19,545 19,623 20,158
THB 757 760 793
CAD 18,245 18,318 18,827
NZD 14,989 15,495
KRW 17.49 19.26
Cập nhật: 13/05/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25770 25770 26130
AUD 16253 16353 16921
CAD 18232 18332 18886
CHF 30368 30398 31283
CNY 0 3574 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28486 28586 29358
GBP 33728 33778 34896
HKD 0 3355 0
JPY 171.97 172.97 179.53
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15056 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19522 19652 20379
THB 0 724 0
TWD 0 845 0
XAU 11800000 11800000 12000000
XBJ 11000000 11000000 12000000
Cập nhật: 13/05/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,180
USD20 25,770 25,820 26,180
USD1 25,770 25,820 26,180
AUD 16,258 16,408 17,478
EUR 28,491 28,641 29,821
CAD 18,163 18,263 19,579
SGD 19,580 19,730 20,205
JPY 172.28 173.78 178.47
GBP 33,784 33,934 34,723
XAU 11,798,000 0 12,002,000
CNY 0 3,457 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 13/05/2025 15:00