Nhiền ngân hàng trung ương châu Á hạ lãi suất "cứu" tăng trưởng

14:07 | 09/08/2019

219 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Việc Mỹ đánh thuế lên hàng trăm tỷ USD hàng hoá của Trung Quốc đang đe doạ tăng trưởng của các quốc gia trong thời gian tới. Việc nhiều ngân hàng trung ương châu Á cắt giảm lãi suất được coi là hành động đi trước để “cứu” tăng trưởng GDP.

Thêm ba ngân hàng trung ương (NHTW) trong khu vực châu Á trong ngày 7/8 đã cắt giảm lãi suất một cách khá bất ngờ, gồm Ấn Độ, Thái Lan và New Zealand.

Nhiền ngân hàng trung ương châu Á hạ lãi suất
Khả năng tăng trưởng kinh tế giảm mạnh là rủi ro lớn nhất đang thúc đẩy các NHTW trong đó có Thái Lan cắt giảm lãi suất

Công ty chứng khoán Rồng Việt (VDSC) nhận định, điều này đến từ triển vọng tăng trưởng kinh tế u ám do tác động lan truyền từ chiến tranh thương mại.

Tương tự Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED), các NHTW trên thế giới chủ động đi trước để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh dự báo tăng trưởng của các quốc gia đều bị điều chỉnh giảm mạnh trên diện rộng.

Tại Ấn Độ, nhà điều hành nước này đã mạnh tay “rút lại” toàn bộ mức tăng lãi suất của năm trước. Tính đến nay, lãi suất điều hành chỉ ở mức 5,75%/năm, thấp hơn so với giai đoạn trước khi chiến tranh thương mại nổ ra.

Trong khi đó, NHTW New Zealand quyết định cắt giảm tới 50 điểm phần trăm thay cho mức 25 điểm phần trăm như thường thấy. Đây đã là lần cắt giảm lãi suất thứ hai của ngân hàng trung ương nước này trong 8 tháng đầu năm.

Thái Lan là trường hợp đáng suy ngẫm khi NHTW nước này đã làm bất ngờ giới chuyên gia kinh tế cũng như nhà đầu tư với việc cắt giảm lãi suất điều hành 25 điểm lãi suất trong bối cảnh rủi ro lạm phát thấp.

Theo VDSC, điều này có thể là sự khởi đầu cho sự đảo ngược chính sách sau lần tăng lãi suất vào cuối năm 2018. Tại thời điểm đó, việc đầu cơ trên thị trường nhà đất khiến nền kinh tế dễ chịu thương tổn trước các cú sốc tài chính. Yêu cầu tạo khoảng trống cho điều hành chính sách tiền tệ cũng thúc đẩy nhà điều hành tăng lãi suất.

Tuy nhiên, hiện nay, khả năng tăng trưởng kinh tế giảm mạnh là rủi ro lớn nhất đang thúc đẩy NHTW của Thái Lan cắt giảm lãi suất. Theo AMRO, dự báo tăng trưởng GDP Thái Lan được điều chỉnh xuống mức 3,3%/năm trong 2019-2020, thấp hơn mức 3,7-3,8%/năm trong dự báo trước đó.

Tại Malaysia và Philippines, NHTW tại cả hai quốc gia này được dự báo sẽ sớm cắt giảm lãi suất. Theo khảo sát, NHTW Malaysia có thể giảm lãi suất trong 3-6 tháng tiếp theo trong khi những người đồng cấp tại Philippines dường như sẵn sàng cho kịch bản giảm lãi suất điều hành 50 điểm phần trăm trong phần còn lại của năm 2019.

Vậy điều gì sẽ xảy ra tại Việt Nam khi chu kỳ giảm lãi suất toàn cầu đang nóng dần? Theo VDSC, sẽ chưa có biến chuyển gì đến hết năm 2019.

Báo cáo của VDSC nhận định rằng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) sẽ hoàn tất quá trình nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng và duy trì thanh khoản ngắn hạn dồi dào nhằm hạ chi phí vay mượn ngắn hạn, thay cho việc mạnh tay giảm lãi suất điều hành dài hạn do rủi ro tăng giá tài sản vẫn còn.

Tuy nhiên, năm 2020 có thể là câu chuyện khác khi tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi tác động từ cuộc chiến thương mại, đặc biệt sau khi Mỹ áp thuế lên 500 tỷ USD hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Theo đó, tăng trưởng GDP sẽ bị tác động mạnh nhất trong 2020-2021 với mức giảm dự báo 0,5%-0,6%.

Chính vì vậy, điều thị trường cần làm hiện nay chỉ có thể là chờ đợi quyết định từ NHNN Việt Nam!

Nhiền ngân hàng trung ương châu Á hạ lãi suất

Theo Dân trí

BIDV giảm trần lãi suất cho vay 5,5%/năm với 3 nhóm khách hàng ưu tiên
Giá vàng hôm nay 4/8: Nước Mỹ gây “bão”, giá vàng tăng không ngừng
TS. Cấn Văn Lực: Giảm lãi suất sẽ kéo theo hai hệ lụy
Doanh nghiệp bất động sản huy động vốn trên thị trường với mức lãi suất cao

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,850 ▲200K
AVPL/SJC HCM 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
AVPL/SJC ĐN 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,850 ▲200K
Cập nhật: 20/04/2024 11:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 ▲100K 84.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 11:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,475 ▲10K 7,680 ▲10K
Trang sức 99.9 7,465 ▲10K 7,670 ▲10K
NL 99.99 7,470 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,450 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 8,210 ▲20K 8,400 ▲30K
Miếng SJC Nghệ An 8,210 ▲20K 8,400 ▲30K
Miếng SJC Hà Nội 8,210 ▲20K 8,400 ▲30K
Cập nhật: 20/04/2024 11:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▲200K 84,000 ▲200K
SJC 5c 82,000 ▲200K 84,020 ▲200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▲200K 84,030 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 11:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,001 16,021 16,621
CAD 18,177 18,187 18,887
CHF 27,419 27,439 28,389
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,542 3,712
EUR #26,237 26,447 27,737
GBP 30,905 30,915 32,085
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.25 160.4 169.95
KRW 16.3 16.5 20.3
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,228 2,348
NZD 14,723 14,733 15,313
SEK - 2,253 2,388
SGD 18,116 18,126 18,926
THB 637.47 677.47 705.47
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 11:00