Nhật Bản: Cân bằng khó khăn giữa đồng minh và an ninh năng lượng

09:09 | 05/04/2022

525 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - CNBC, NHK (Nhật Bản) ngày 1/4/2022 đưa các phát biểu của Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida và Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản Koichi Hagiuda, cho biết Nhật Bản sẽ không rút khỏi các dự án dầu và khí đốt tự nhiên ở vùng Viễn Đông của Nga. Hiện nay, một số công ty năng lượng Nhật Bản đang đầu tư vào các dự án phát triển dầu và khí đốt tự nhiên của Nga, bao gồm Sakhalin-1, Sakhalin-2 và Arctic LNG 2 (ARC 2).
Nhật Bản: Cân bằng khó khăn giữa đồng minh và an ninh năng lượng
Nhật Bản không có ý định rút khỏi các dự án dầu và khí LNG ở Nga, trong đó có dự án ngoài khơi Sakhalin, nằm ở phía bắc Hokkaido, Nhật Bản. Ảnh:Kyodo.

Các công ty Nhật Bản như METI, Itochu, JAPEX, Marubeni và Inpex đầu tư vào dự án Sakhalin-1, trong khi đó, hai công ty Mitsui và Mitsubishi nằm trong số các nhà đầu tư của dự án Sakhalin-2. Công ty Mitsui cùng với Tập đoàn Dầu khí và Kim loại quốc gia Nhật Bản (JOGMEC) đầu tư cho dự án ARC 2.

Phát biểu hôm Thứ Sáu (1/4), Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản Hagiuda Koichi nói rằng những dự án này hết sức cần thiết đối với nhu cầu năng lượng của Nhật Bản. Bộ trưởng Koichi Hagiuda cho biết: “Chúng tôi đã quyết định sẽ theo đuổi những dự án này lâu dài. Trong tình hình giá năng lượng tăng vọt như hiện nay, chúng tôi có thể thu mua năng lượng với giá rẻ hơn giá thị trường. Điều này cực kỳ quan trọng đối với an ninh năng lượng của đất nước".

Bộ trưởng Koichi Hagiuda cho biết Nhật Bản nhập khẩu khoảng 90% dầu thô từ Trung Đông và dự án Sakhalin-1 là một nguồn năng lượng quan trọng bên ngoài khu vực đó. Ông cho biết thêm rằng dự án Sakhalin-2 chiếm khoảng 9% tổng lượng khí đốt tự nhiên hóa lỏng nhập khẩu của Nhật Bản. "Nhật Bản có cổ phần trong cả hai dự án và đã đảm bảo nguồn cung lâu dài. Các dự án cung cấp năng lượng cho đất nước chúng ta với giá thấp hơn thị trường và chi phí năng lượng tăng cao đang khiến các dự án trở nên quan trọng hơn." Bộ trưởng Koichi Hagiuda cũng nhấn mạnh rằng Nhật Bản sẽ không rút khỏi dự án phát triển LNG ở Bắc Cực của Nga.

Nhật Bản không có ý định rút khỏi các dự án dầu và khí LNG ở Nga
Nhật Bản không có ý định rút khỏi các dự án dầu và khí LNG ở Nga.Ảnh: ARC 2/Novatek.

Trước đó hôm thứ Năm (31/3), Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida cho biết Nhật Bản sẽ không từ bỏ dự án khí đốt lớn của Nga khi nói với các quan chức hàng đầu của Nhật Bản rằng sẽ không mạo hiểm với an ninh năng lượng của Nhật Bản. Các nguồn tin cho biết, trong các cuộc họp vào đầu tháng Ba, Thủ tướng Fumio Kishida đảm bảo với Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Koichi Hagiuda, và các quan chức khác rằng Nhật Bản sẽ ở lại dự án khí đốt tự nhiên hóa lỏng Sakhalin-2 (LNG) vì việc rời đi sẽ ảnh hưởng nền kinh tế.

Phát biểu với Quốc hội Nhật Bản hôm thứ Năm (31/3), Thủ tướng Fumio Kishida nhấn mạnh “chính sách của chúng ta không phải là rút” khỏi Sakhalin-2. Đây là phát biểu công khai rõ ràng nhất của Nhật Bản về dự án năng lượng ngoài khơi này.

Sự cân bằng khó khăn giữa đồng minh và an ninh năng lượng

Đối mặt với cuộc bầu cử quốc gia vào tháng Bảy, Thủ tướng Kishida muốn tránh việc hóa đơn nhiên liệu tăng vọt và nguy cơ mất điện. Phát biểu ban đầu sau cuộc khủng hoảng Ukraine, Nhật Bản nhấn mạnh sự cần thiết phải đi song hành với G-7, đồng thời duy trì nguồn cung cấp năng lượng ổn định. Tuy nhiên, trong những tuần sau đó, các nhà hoạch định chính sách ngày càng nói nhiều về việc cổ phần của Nhật Bản tại các dự án LNG ở Nga có thể đối mặt với nguy cơ bị thu hồi như thế nào và tầm quan trọng của an ninh năng lượng.

Sự thay đổi tinh tế trong thông điệp công khai của cả Thủ tướng Fumio Kishida và các quan chức chính phủ khác trong những tuần sau đó đã cho thấy sự cân bằng khó khăn của Nhật Bản trong việc điều hướng phản ứng của mình cùng với các quốc gia G7 khác. Ngay cả khi đưa ra các lệnh cấm vận nhằm vào các ngân hàng và giới tài phiệt Nga, Nhật Bản có ít không gian hành động hơn so với một số đồng minh để cắt đứt quan hệ với khí đốt của Nga. Sau khi đóng cửa các lò phản ứng hạt nhân sau thảm họa Fukushima năm 2011, Nhật Bản đã ngày càng trở nên phụ thuộc hơn vào nguồn năng lượng của Nga.

Thông báo của Thủ tướng Fumio Kishida cũng có thể thể hiện một thắng lợi cho chính sách năng lượng của Bộ Thương mại Nhật Bản đối với hoạt động ngoại giao của Bộ Ngoại giao và có thể xoa dịu các nhà đầu tư vào các công ty Nhật Bản sở hữu cổ phần tại Sakhalin-2 và các dự án khác ở Nga.

Sự phụ thuộc vào LNG

Trong hơn một thập kỷ, Nhật Bản đã khai thác khí đốt của Nga để cắt giảm sự phụ thuộc vào dầu mỏ ở Trung Đông và bù đắp năng lực hạt nhân đã mất. Mặc dù mới chiếm một tỷ trọng nhỏ trong LNG của Nhật Bản, khí đốt của Nga có giá chỉ bằng một phần nhỏ so với giá thị trường giao ngay, và cùng với khí đốt từ Úc và Đông Nam Á, đã thúc đẩy lượng tiêu thụ năng lượng LNG của Nhật Bản từ mức ít hơn một phần tư thập kỷ trước lên hơn một phần ba.

Nhật Bản: Cân bằng khó khăn giữa đồng minh và an ninh năng lượng
Tàu chở LNG Sohshu Maru đi vào cảng Futtsu Thermal Power Station, ở Futtsu, tỉnh Chiba, Nhật Bản.Ảnh: Kiyoshi Ota/Bloomberg/Getty Images.

Một quan chức cấp cao của cơ quan năng lượng Nhật Bản, yêu cầu dấu tên, cho biết nếu Nhật Bản buộc phải thay thế LNG của Nga bằng khí đốt mua trên thị trường giao ngay, điều đó có nghĩa là Nhật Bản phải chi phí bổ sung lên tới 3 nghìn tỷ yên (25 tỷ USD), theo giá giao ngay hiện tại. Các công ty điện và khí đốt của Nhật Bản đang sử dụng LNG của Nga. Hiroshima Gas, quê hương của Thủ tướng Kishida, phụ thuộc vào LNG của Nga cho một nửa nguồn cung của mình. LNG chiếm một phần tư tổng năng lượng hỗn hợp của Nhật Bản và tạo ra 36% điện năng của đất nước. Ken Koyama, Giám đốc điều hành cấp cao tại Viện Kinh tế Năng lượng cho biết ngay cả khi nguồn cung có thể được đảm bảo, chi phí khí đốt sẽ tăng lên rất nhiều.

Các lo ngại an ninh quốc gia

Dầu mỏ vẫn là nguồn năng lượng lớn nhất của Nhật Bản, chiếm khoảng hai phần năm (2/5) lượng tiêu thụ và gần như tất cả được vận chuyển từ Trung Đông trên các tuyến đường hàng hải. Đối với một số quan chức chính phủ, lo ngại lớn nhất là Nhật Bản sẽ mất quyền khai thác khí đốt từ Sakhalin, làm giảm khả năng độc lập năng lượng và ảnh hưởng tới an ninh quốc gia. Một trong những nguồn tin cho biết, nếu Tokyo cấm khí đốt của Nga, Bắc Kinh có thể mua nó. Quan chức cơ quan năng lượng cho biết độc lập về năng lượng từ lâu đã là mối quan tâm của Nhật Bản, bày tỏ lo ngại “cuối cùng có thể gây căng thẳng với châu Âu và Mỹ”.

Cho đến nay, Nhóm G7 mới nhất trí giảm sự phụ thuộc vào năng lượng của Nga thay vì áp đặt lệnh ngừng mua năng lượng ngay lập tức. Đặc biệt, Đức lo ngại với việc cấm các nguồn cung năng lượng từ Nga, chiếm khoảng một phần ba nhu cầu về lượng khí đốt của Đức. Takayuki Homma, nhà kinh tế trưởng tại Sumitomo Corp Global Research cho biết nếu các thành viên khác của G7 quyết định cấm nhập khẩu năng lượng của Nga thì Nhật Bản cũng phải làm như vậy, nếu G7 quyết định không cấm, thì Nhật Bản có thể tránh phải làm việc này./.

Thanh Bình

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 114,900 ▼1100K 117,200 ▼800K
AVPL/SJC HCM 114,900 ▼1100K 117,200 ▼800K
AVPL/SJC ĐN 114,900 ▼1100K 117,200 ▼800K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
TPHCM - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Hà Nội - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Hà Nội - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Đà Nẵng - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Đà Nẵng - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Miền Tây - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Miền Tây - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.000 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.000 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 110.500 ▼800K 113.000 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.390 ▼800K 112.890 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 109.700 ▼790K 112.200 ▼790K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.470 ▼790K 111.970 ▼790K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.400 ▼600K 84.900 ▼600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.760 ▼460K 66.260 ▼460K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.660 ▼330K 47.160 ▼330K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.110 ▼730K 103.610 ▼730K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.580 ▼490K 69.080 ▼490K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.100 ▼520K 73.600 ▼520K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.490 ▼540K 76.990 ▼540K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.030 ▼300K 42.530 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.940 ▼260K 37.440 ▼260K
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,990 ▼20K 11,410 ▼30K
Trang sức 99.9 10,980 ▼20K 11,400 ▼30K
NL 99.99 10,740 ▼20K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,740 ▼20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,200 ▼20K 11,470 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,200 ▼20K 11,470 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,200 ▼20K 11,470 ▼30K
Miếng SJC Thái Bình 11,490 ▼110K 11,720 ▼80K
Miếng SJC Nghệ An 11,490 ▼110K 11,720 ▼80K
Miếng SJC Hà Nội 11,490 ▼110K 11,720 ▼80K
Cập nhật: 07/06/2025 22:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16380 16648 17235
CAD 18487 18764 19394
CHF 31053 31431 32090
CNY 0 3530 3670
EUR 29048 29317 30362
GBP 34416 34807 35772
HKD 0 3188 3392
JPY 172 177 183
KRW 0 18 19
NZD 0 15355 15946
SGD 19657 19938 20475
THB 710 773 827
USD (1,2) 25784 0 0
USD (5,10,20) 25823 0 0
USD (50,100) 25851 25885 26240
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,842 34,937 35,867
HKD 3,262 3,272 3,371
CHF 31,242 31,339 32,210
JPY 177.2 177.52 185.46
THB 761.53 770.94 825.07
AUD 16,692 16,753 17,208
CAD 18,808 18,869 19,378
SGD 19,916 19,978 20,610
SEK - 2,671 2,765
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,926 4,062
NOK - 2,540 2,629
CNY - 3,590 3,687
RUB - - -
NZD 15,393 15,536 15,992
KRW 17.83 - 19.97
EUR 29,331 29,354 30,605
TWD 786.63 - 952.32
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,650 87,991
XAU - - -
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25865 25865 26225
AUD 16556 16656 17221
CAD 18685 18785 19344
CHF 31308 31338 32212
CNY 0 3590 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29383 29483 30256
GBP 34760 34810 35912
HKD 0 3270 0
JPY 177.23 178.23 184.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15500 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19863 19993 20726
THB 0 743.7 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10000000 10000000 11750000
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,220
USD20 25,850 25,900 26,220
USD1 25,850 25,900 26,220
AUD 16,582 16,732 17,810
EUR 29,397 29,547 30,747
CAD 18,618 18,718 20,048
SGD 19,919 20,069 20,561
JPY 177.53 179.03 183.83
GBP 34,818 34,968 35,785
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,471 0
THB 0 778 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 07/06/2025 22:00