Nên chấm dứt ngay việc xây dựng nhà máy điện than mới?

18:29 | 05/07/2021

427 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Theo báo cáo mới có tên “Do not revive coal” (Đừng phục hồi than đá) do tổ chức tài chính Carbon Tracker công bố, 5 quốc gia châu Á lên kế hoạch xây dựng 80% các nhà máy điện than mới trên thế giới, điều này đe dọa các mục tiêu khí hậu của Thỏa thuận Paris mặc dù nguồn năng lượng tái tạo ít tốn kém hơn vẫn luôn sẵn có. Các nhà đầu tư cảnh báo kế hoạch phát triển 600 nhà máy điện than mới có thể gây lãng phí 150 tỷ USD.

Theo đó, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản và Việt Nam có kế hoạch xây dựng hơn 600 nhà máy mới với tổng công suất hơn 300GW, trong khi Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Antonio Guterres kêu gọi hủy bỏ các dự án mới. Ông cho biết việc loại bỏ dần than khỏi ngành điện lực là “bước đi quan trọng nhất” trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng khí hậu.

Nên chấm dứt ngay việc xây dựng nhà máy điện than mới?
Dự án nhiệt điện than của Trung Quốc chiếm hơn 50% dự án toàn châu Á

Báo cáo cảnh báo rằng 92% các dự án này sẽ không mang lại lợi ích kinh tế, cho dù vẫn hoạt động bình thường và có thể gây lãng phí tới 150 tỷ USD. Người tiêu dùng và người đóng thuế cuối cùng sẽ phải chi trả nhiều tiền bởi các nước này hoặc là sẽ hỗ trợ điện than, hoặc là tạo một thị trường, thỏa thuận mua bán điện thuận lợi hay các hình thức chính sách hỗ trợ khác.

Trưởng bộ phận Năng lượng và Tiện ích của Carbon Tracker, bà Catharina Hillenbrand Von Der Neyen cho biết: “Những thành trì điện than cuối cùng này đang đi ngược lại xu hướng, trong khi năng lượng tái tạo mang đến một giải pháp ít tốn kém hơn nhằm hỗ trợ các mục tiêu khí hậu toàn cầu. Các nhà đầu tư nên cẩn trọng với các dự án điện than mới, nhiều dự án trong số đó có thể gây thua lỗ ngay từ lúc mới đầu”.

Cũng như mô hình hóa tài chính của 80% dự án điện than mới, báo cáo "Do not revive coal" đánh giá tính kinh tế của 95% các nhà máy điện than đang hoạt động ở mức độ lò hơi trên toàn thế giới: hơn 6.000 tổ máy đang vận hành có công suất khoảng 2.000GW. Đây là báo cáo thứ ba trong loạt chương trình Cắt giảm điện than (Powering down coal) hàng năm của Carbon Tracker.

Năm quốc gia châu Á cũng vận hành gần 3/4 số nhà máy điện than toàn cầu hiện tại, với 55% ở Trung Quốc và 12% ở Ấn Độ. Báo cáo cảnh báo rằng khoảng 27% công suất điện than hiện tại đã không thể sinh lãi và 30% còn lại gần hòa vốn, với mức lợi nhuận trên danh nghĩa tạo ra không quá 5 USD/MWh. Nếu thế giới đáp ứng các mục tiêu khí hậu của Thỏa thuận Paris, số tài sản mắc kẹt sinh ra từ chi phí vận hành các nhà máy điện than trên toàn thế giới sẽ là 220 tỷ USD.

Báo cáo cho thấy khoảng 80% số nhà máy điện than đang hoạt động trên toàn cầu có thể được thay thế bằng các nhà máy năng lượng tái tạo mới với chi phí tiết kiệm tức thời. Đến năm 2024, năng lượng tái tạo sẽ ít tốn kém hơn điện than ở mọi khu vực lớn và đến năm 2026, gần như 100% các nhà máy điện than sẽ có chi phí vận hành đắt đỏ so với việc xây dựng và vận hành các nhà máy năng lượng tái tạo mới.

Sự cạnh tranh ngày càng tăng từ năng lượng tái tạo, cùng với việc tăng cường các quy định, có khả năng khiến việc sử dụng các nhà máy điện than tiếp tục suy giảm, làm sụt giảm lợi nhuận từ chúng. Báo cáo lưu ý rằng vấn đề kinh tế của nhà máy điện than rất nhạy với việc sử dụng dịch vụ tiện ích của người tiêu dùng, và chỉ cần giảm 5% hàng năm so với giả định cơ sở trong phân tích sẽ khiến khả năng thua lỗ của ngành điện than toàn cầu tăng gần gấp đôi lên 52% vào năm 2030 và tăng lên 77% vào năm 2040.

Bà Catharina Hillenbrand Von Der Neyen cho biết: “Than đá không còn có ý nghĩa về mặt tài chính và môi trường. Các chính phủ hiện tại nên tạo ra một sân chơi bình đẳng cho phép năng lượng tái tạo phát triển với chi phí thấp nhất, sử dụng nguồn quỹ kích thích hậu Covid nhằm tạo cơ hội để đặt nền móng cho một hệ thống năng lượng bền vững".

Tuy nhiên, sự im lặng từ phía các quốc gia gây nhiều ô nhiễm, bao gồm Trung Quốc và Ấn Độ, về các giải pháp khí hậu tích cực hơn tại Hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo về vấn đề khí hậu gần đây đã cho thấy nhiều điều, rằng họ vẫn có những ưu tiên nội bộ đi ngược lại các chính sách giảm thiểu biến đổi khí hậu.

Ở cấp độ doanh nghiệp, chỉ có 10 công ty chiếm khoảng 40% gặp rủi ro với tài sản mắc kẹt, trong đó tập đoàn NTPC và Adani Group tại Ấn Độ và PLN tại Indonesia cho đến nay là những đối tượng chịu nhiều rủi ro nhất. Trong số 10 công ty gặp nhiều rủi ro nhất, có tới 7 công ty có trụ sở chính tại Ấn Độ.

Việt Nam có hệ thống nhà máy điện than đạt công suất 24GW đang hoạt động và 24GW nữa đang được triển khai. Năng lượng tái tạo mới sẽ cạnh tranh với các tổ máy điện than hiện có ở Việt Nam vào năm 2022.

Tùng Dương

Dự án nhiệt điện than của Trung Quốc có mức độ phát thải gấp 7 lần Dự án nhiệt điện than của Trung Quốc có mức độ phát thải gấp 7 lần
G7 không trợ cấp cho các nhà máy nhiệt điện than từ cuối năm 2021 G7 không trợ cấp cho các nhà máy nhiệt điện than từ cuối năm 2021
Điện than, điện khí “nhường đất” cho năng lượng tái tạo, vận hành hệ thống điện gặp khó Điện than, điện khí “nhường đất” cho năng lượng tái tạo, vận hành hệ thống điện gặp khó
EVN: Ưu tiên huy động 32 tỉ kWh điện mặt trời trong năm 2021 EVN: Ưu tiên huy động 32 tỉ kWh điện mặt trời trong năm 2021

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 81,000
AVPL/SJC HCM 79,000 81,000
AVPL/SJC ĐN 79,000 81,000
Nguyên liệu 9999 - HN 68,850 69,450
Nguyên liệu 999 - HN 68,750 69,350
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 81,000
Cập nhật: 29/03/2024 00:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 68.500 69.800
TPHCM - SJC 79.100 81.100
Hà Nội - PNJ 68.500 69.800
Hà Nội - SJC 79.100 81.100
Đà Nẵng - PNJ 68.500 69.800
Đà Nẵng - SJC 79.100 81.100
Miền Tây - PNJ 68.500 69.800
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 68.500 69.800
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 81.100
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 68.500
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 81.100
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 68.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 68.400 69.200
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 50.650 52.050
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.230 40.630
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.540 28.940
Cập nhật: 29/03/2024 00:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,835 6,990
Trang sức 99.9 6,825 6,980
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,900 7,020
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,900 7,020
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,900 7,020
NL 99.99 6,830
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,830
Miếng SJC Thái Bình 7,930 8,115
Miếng SJC Nghệ An 7,930 8,115
Miếng SJC Hà Nội 7,930 8,115
Cập nhật: 29/03/2024 00:02
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 68,500 69,750
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 68,500 69,850
Nữ Trang 99.99% 68,400 69,250
Nữ Trang 99% 67,064 68,564
Nữ Trang 68% 45,245 47,245
Nữ Trang 41.7% 27,030 29,030
Cập nhật: 29/03/2024 00:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,660.26 15,818.45 16,326.56
CAD 17,743.11 17,922.33 18,498.03
CHF 26,676.40 26,945.86 27,811.41
CNY 3,357.08 3,390.99 3,500.45
DKK - 3,515.18 3,649.93
EUR 26,018.34 26,281.16 27,446.04
GBP 30,390.95 30,697.93 31,684.00
HKD 3,086.91 3,118.09 3,218.25
INR - 296.34 308.20
JPY 158.69 160.29 167.96
KRW 15.84 17.60 19.20
KWD - 80,359.61 83,575.55
MYR - 5,182.84 5,296.09
NOK - 2,236.99 2,332.06
RUB - 255.43 282.77
SAR - 6,588.96 6,852.65
SEK - 2,268.45 2,364.86
SGD 17,871.79 18,052.31 18,632.18
THB 599.73 666.36 691.91
USD 24,580.00 24,610.00 24,950.00
Cập nhật: 29/03/2024 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,860 15,880 16,480
CAD 18,018 18,028 18,728
CHF 27,023 27,043 27,993
CNY - 3,362 3,502
DKK - 3,503 3,673
EUR #25,934 26,144 27,434
GBP 30,794 30,804 31,974
HKD 3,040 3,050 3,245
JPY 159.77 159.92 169.47
KRW 16.19 16.39 20.19
LAK - 0.68 1.38
NOK - 2,208 2,328
NZD 14,580 14,590 15,170
SEK - 2,247 2,382
SGD 17,823 17,833 18,633
THB 627.62 667.62 695.62
USD #24,555 24,595 25,015
Cập nhật: 29/03/2024 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,610.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,298.00 26,404.00 27,570.00
GBP 30,644.00 30,829.00 31,779.00
HKD 3,107.00 3,119.00 3,221.00
CHF 26,852.00 26,960.00 27,797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15,877.00 15,941.00 16,428.00
SGD 18,049.00 18,121.00 18,658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,916.00 17,988.00 18,519.00
NZD 14,606.00 15,095.00
KRW 17.59 19.18
Cập nhật: 29/03/2024 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24593 24643 24983
AUD 15883 15933 16343
CAD 18015 18065 18469
CHF 27159 27209 27624
CNY 0 3394.2 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26474 26524 27027
GBP 31019 31069 31522
HKD 0 3115 0
JPY 161.65 162.15 166.68
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0264 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14574 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18196 18196 18548
THB 0 638.7 0
TWD 0 777 0
XAU 7930000 7930000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 00:02