Lệnh cấm vận dầu Nga của phương Tây đang ‘đuối sức’?

14:57 | 05/02/2023

1,698 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
The Economist (Anh) cho rằng, các đợt cấm vận mới của phương Tây đối với dầu mỏ Nga, có hiệu lực từ ngày 5/2, sẽ không thể gây áp lực với Moscow.
Áp giá trần dầu Nga: Moscow đã có sẵn 'đường lui', thà bán dầu lỗ chứ quyết không nhượng bộ phương Tây?. (Nguồn: Reuters)
Các lệnh trừng phạt của phương Tây về dầu mỏ đối với Nga không còn hiệu quả. (Nguồn: Reuters)

Tháng 12/2022, phương Tây tung ra gói trừng phạt trong lĩnh vực năng lượng chưa từng có với một quốc gia nhằm triệt tiêu nguồn thu từ dầu mỏ của Moscow. Chúng bao gồm cấm nhập khẩu dầu thô từ Nga; ngăn các công ty châu Âu làm trung gian thúc đẩy các thương vụ mua bán dầu Nga, trừ khi hợp đồng mua bán dầu được thực hiện với giá dưới 60 USD/thùng, con số do các nước phương Tây áp đặt.

Sau hơn 2 tháng áp dụng, không ít người cho rằng, mức giá trần này này đã đạt thành công đáng kể. Bên cạnh đó, đợt trừng phạt mới của châu Âu đối với dầu Diesel và các chế phẩm từ dầu mỏ khác chính thức có hiệu lực từ ngày 5/2.

Tuy nhiên, báo cáo của The Economist lại cho thấy, trên thực tế, các đợt trừng phạt đã qua và nhiều khả năng cả đợt trừng phạt mới đã, sẽ không mang lại nhiều tác dụng như tưởng tượng.

Tại sao lại có câu chuyện này?

Khi chiêu cũ là chưa đủ…

Cụ thể, chính sách cấm-và-áp giá tháng 12/2022 đã không ảnh hưởng đáng kể tới sản lượng dầu thô bán ra của Nga. Trên thực tế, trong lúc các doanh nghiệp châu Âu đang loay hoay để tìm cách đáp ứng mức giá trần mới, các tuyến tàu chở dầu đã nhộn nhịp trở lại - với điểm đến là Trung Quốc và Ấn Độ thay vì châu Âu.

Thống kê cho thấy, trong 4 tuần đầu tiên của năm 2023 (tính đến ngày 29/1) xuất khẩu dầu thô của Nga, không bao gồm dầu cpc (một loại dầu pha của Kazakhstan được vận chuyển từ Nga), đạt 3,7 triệu thùng/ngày. Đây là con số cao nhất kể từ tháng 6/2022 và nhiều hơn bất kỳ một tháng nào trong năm 2021.

Những người ủng hộ áp giá trần sẽ cho rằng, đây là bằng chứng cho sự thành công của chính sách này: Bảo đảm nguồn dầu từ Nga tiếp tục lưu thông để ổn định thị trường, nhưng hạn chế giá thành để siết chặt nguồn lợi nhuận chảy về túi Moscow. Họ nhận định, giá trần này sẽ giúp người mua có ưu thế hơn trong thương lượng, trong khi quãng đường vận chuyển dài hơn đồng nghĩa chi phí bến bãi, container và nhiên liệu tăng, buộc Nga sẽ phải bồi thường cho các khách hàng.

Đồng thời, một số khác cũng nhấn mạnh tới sự khác biệt về giá giữa dầu Brent và dầu Ural được các cơ quan phương Tây thống kê. Sự chênh lệch này đã manh nha xuất hiện sau khi xung đột Nga-Ukraine bùng phát và hiện đã đạt mức 32 USD/thùng. Như vậy, hiện dầu Nga đang được giao dịch ở mức giá giảm tới 38%.

Ngày 10/1, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen, người đã đề xuất áp giá trần dầu Nga, cho rằng, chính sách này đang đạt được nhiều bước tiến tích cực.

Biểu đồ của The Economist cho thấy Ấn Độ và Trung Quốc đang thay thế châu Âu trở thành khách hàng mua dầu lớn của Nga. (Nguồn: The Economist)

Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ, các cơ quan này chưa thay đổi phương thức theo dõi giá cả thị trường, trong bối cảnh dầu Nga không còn được giao dịch ở các kênh công khai mà họ có thể nắm bắt. Giới lọc dầu và các nhà giao dịch ở châu Âu từng chia sẻ thông tin về biến động giá cả, song thị trường Ấn Độ thì không.

Đồng thời, các cơ quan này cũng chỉ dựa vào những chỉ dấu công khai để ước lượng chi phí vận chuyển giữa các cảng phía Tây của Nga và kho chứa châu Âu, song chi phí vận chuyển dầu từ Nga sang châu Á lại thường không được tiết lộ.

Do đó, mức giá giảm được các quan chức phương Tây thống kê là không chính xác và thường bị thổi phòng lên. Trong khi đó, dữ liệu hải quan từ Ấn Độ và Trung Quốc cho thấy, hai nước này đã chi nhiều tiền hơn cho dầu Ural trong mùa Đông hơn bình thường.

Công cuộc nắm bắt giá cả thực sự cũng khó khăn hơn khi tất cả các bên đều có lợi nếu chứng minh rằng mình đã giao dịch dầu ở giá thấp. Doanh nghiệp dầu thô Nga có xu hướng hạ thấp các hóa đơn về, trong khi các nhà lọc dầu Ấn Độ muốn tối đa hóa lợi nhuận trong giao dịch với nhà phân phối.

Đặc biệt, các “cỗ máy xuất khẩu” của Nga đã giảm sự phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng tài chính, vận chuyển của phương Tây, qua đó thoát khỏi phạm vi trừng phạt.

Các giao dịch ngầm sử dụng hệ thống song song ngày một nở rộ. Trước tháng 12/2022, hơn một nửa giao dịch dầu thô từ cảng phía Tây của Nga được triển khai thông qua một doanh nghiệp vận tải hoặc tài chính châu Âu. Tuy nhiên, con số này hiện chỉ còn ở mức 36%.

Trước tháng 12/2022, hơn một nửa giao dịch dầu thô từ cảng phía Tây của Nga được triển khai thông qua một doanh nghiệp vận tải hoặc tài chính châu Âu. Tuy nhiên, con số này hiện chỉ còn ở mức 36%.

…liệu sách mới có khác?

Liệu các đợt trừng phạt mới nhắm vào dầu tinh chế sẽ khiến Nga tổn hại hơn? Thoạt nhìn, chúng được coi là có thể tác động đáng kể tới xuất khẩu dầu Diesel và một số chế phẩm khác trong ngắn hạn.

Theo đó, từ ngày 5/2/2023, châu Âu dừng việc mua các sản phẩm này, đồng thời buộc các doanh nghiệp vận chuyển và bảo hiểm cho những mặt hàng nêu trên phải tuân thủ quy định về giá trần.

Nga sẽ không dễ tìm những khách hàng mới để bù đắp cho sự thiếu hụt do châu Âu để lại: Cả Trung Quốc và Ấn Độ đều có nhà máy lọc dầu của riêng mình, trong khi thay thế các tàu chở dầu của châu Âu là công việc không hề đơn giản. Việc hàng loạt chế phẩm từ dầu mỏ, hiện chiếm tới 1/3 thu nhập từ xuất khẩu dầu mỏ của xứ bạch dương, vắng người mua có thể khiến cho giá cả toàn cầu tăng.

Tuy nhiên, qua thời gian, các tác động này sẽ dần phai nhạt. Một khi không thể bán được dầu tinh chế, Nga có thể sẽ tăng xuất khẩu dầu thô, qua đó tiếp tục thúc đẩy các giao dịch ngầm.

Ở chiều ngược lại, không loại trừ khả năng châu Âu sẽ quay sang Trung Quốc và Ấn Độ để tìm kiếm nguồn dầu Diesel, dù chúng được sản xuất từ dầu thô của Nga. Một khi dòng dầu của Moscow chảy ra khỏi tầm kiểm soát của phương Tây, các biện pháp cấm vận sẽ ngày một ít tác dụng.

Giới phân tích nhận định, các lệnh trừng phạt sẽ không thể thay thế cho viện trợ tài chính và quân sự dành cho Ukraine. Cấm vận dầu Nga sẽ không thể thay đổi cục diện xung đột hiện nay.

Điện Kremlin cảnh báo nguy cơ đằng sau lệnh cấm vận của EUĐiện Kremlin cảnh báo nguy cơ đằng sau lệnh cấm vận của EU
Giá dầu thô ghi nhận tuần mất giá mạnhGiá dầu thô ghi nhận tuần mất giá mạnh
Xăng dầu của Nga chính thức bị áp giá trầnXăng dầu của Nga chính thức bị áp giá trần

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC HCM 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC ĐN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Nguyên liệu 9999 - HN 69,450 ▲600K 69,900 ▲450K
Nguyên liệu 999 - HN 68,350 ▼400K 69,800 ▲450K
AVPL/SJC Cần Thơ 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Cập nhật: 29/03/2024 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
TPHCM - SJC 79.000 ▼100K 81.000 ▼100K
Hà Nội - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Hà Nội - SJC 79.000 ▼100K 81.000 ▼100K
Đà Nẵng - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Đà Nẵng - SJC 79.000 ▼100K 81.000 ▼100K
Miền Tây - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.000 ▼100K 81.000 ▼100K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.000 ▼100K 81.000 ▼100K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 69.200 ▲800K 70.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 51.250 ▲600K 52.650 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.700 ▲470K 41.100 ▲470K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.870 ▲330K 29.270 ▲330K
Cập nhật: 29/03/2024 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,915 ▲80K 7,070 ▲80K
Trang sức 99.9 6,905 ▲80K 7,060 ▲80K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,980 ▲80K 7,100 ▲80K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,980 ▲80K 7,100 ▲80K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,980 ▲80K 7,100 ▲80K
NL 99.99 6,910 ▲80K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,910 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Nghệ An 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Hà Nội 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Cập nhật: 29/03/2024 12:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 69,250 ▲750K 70,500 ▲750K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 69,250 ▲750K 70,600 ▲750K
Nữ Trang 99.99% 69,150 ▲750K 70,000 ▲750K
Nữ Trang 99% 67,807 ▲743K 69,307 ▲743K
Nữ Trang 68% 45,755 ▲510K 47,755 ▲510K
Nữ Trang 41.7% 27,343 ▲313K 29,343 ▲313K
Cập nhật: 29/03/2024 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,744.51 15,903.54 16,414.36
CAD 17,859.08 18,039.48 18,618.89
CHF 26,797.53 27,068.21 27,937.63
CNY 3,362.04 3,396.00 3,505.60
DKK - 3,518.32 3,653.18
EUR 26,047.45 26,310.56 27,476.69
GBP 30,507.55 30,815.71 31,805.49
HKD 3,090.38 3,121.59 3,221.86
INR - 296.93 308.81
JPY 159.05 160.66 168.34
KRW 15.91 17.67 19.28
KWD - 80,430.82 83,649.45
MYR - 5,194.61 5,308.11
NOK - 2,235.93 2,330.95
RUB - 255.73 283.10
SAR - 6,596.77 6,860.75
SEK - 2,269.46 2,365.91
SGD 17,917.31 18,098.29 18,679.60
THB 600.95 667.72 693.31
USD 24,610.00 24,640.00 24,980.00
Cập nhật: 29/03/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,910 16,010 16,460
CAD 18,074 18,174 18,724
CHF 27,034 27,139 27,939
CNY - 3,394 3,504
DKK - 3,535 3,665
EUR #26,274 26,309 27,569
GBP 30,938 30,988 31,948
HKD 3,096 3,111 3,246
JPY 160.66 160.66 168.61
KRW 16.62 17.42 20.22
LAK - 0.88 1.24
NOK - 2,242 2,322
NZD 14,578 14,628 15,145
SEK - 2,266 2,376
SGD 17,937 18,037 18,637
THB 627.41 671.75 695.41
USD #24,570 24,650 24,990
Cập nhật: 29/03/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,620.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,213.00 26,318.00 27,483.00
GBP 30,653.00 30,838.00 31,788.00
HKD 3,106.00 3,118.00 3,219.00
CHF 26,966.00 27,074.00 27,917.00
JPY 159.88 160.52 167.96
AUD 15,849.00 15,913.00 16,399.00
SGD 18,033.00 18,105.00 18,641.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,979.00 18,051.00 18,585.00
NZD 14,568.00 15,057.00
KRW 17.62 19.22
Cập nhật: 29/03/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24610 24660 25000
AUD 15946 15996 16411
CAD 18121 18171 18576
CHF 27290 27340 27752
CNY 0 3397.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26478 26528 27038
GBP 31115 31165 31625
HKD 0 3115 0
JPY 161.97 162.47 167
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0254 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14617 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18225 18225 18586
THB 0 639.6 0
TWD 0 777 0
XAU 7900000 7900000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 12:00