Cách mạng công nghiệp 4.0

Lao động nữ gặp nhiều rủi ro

13:01 | 07/11/2019

453 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, việc làm đối với lao động nữ trở nên khó khăn hơn, bởi định kiến phụ nữ “chân yếu tay mềm”, chỉ làm những việc giản đơn, thiên về lao động chân tay... đã ăn sâu vào tư duy không ít người sử dụng lao động.

Đối tượng yếu thế, thiệt thòi

Theo thống kê của Tổng Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) Việt Nam, hiện nay số lượng nữ giới trong độ tuổi lao động có 22,3 triệu người, chiếm 45,6% lực lượng lao động, làm việc ở nhiều lĩnh vực nhưng thiên về lao động giản đơn, không sử dụng nhiều công nghệ, máy móc hay kỹ thuật cao. Các chuyên gia lao động, chuyên gia về giới nhận định: Lao động nữ được xem là đối tượng yếu thế, dễ tổn thương do không nhận được sự đối xử công bằng, nhất là trong phân bổ việc làm theo khu vực, nghề nghiệp.

lao dong nu gap nhieu rui ro
Phần lớn lao động nữ chỉ làm việc đơn giản tại các doanh nghiệp

Bà Vũ Thị Thu Hằng, một chuyên gia nghiên cứu độc lập về giới, cho hay: Một số cuộc khảo sát đã chứng minh, lao động nữ tham gia tích cực vào nhiều ngành nghề, lĩnh vực. Song, vị trí việc làm của phụ nữ dễ bị thay thế bởi thường là lao động đơn giản. Họ ít được tuyển dụng vào những ngành nghề đòi hỏi kỹ thuật cao…

Chính vì vậy, trước xu thế CMCN 4.0 diễn ra mạnh mẽ, việc làm và cơ hội thăng tiến đối với lao động nữ là một thách thức lớn. Bà Hằng đơn cử, trong ngành da giày hay dệt may hiện nay, lao động nữ chủ yếu làm những công việc chân tay, không đòi hỏi cao về kỹ thuật. Trong khi đó, để đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0, các doanh nghiệp đang đầu tư ngày càng nhiều dây chuyền sản xuất hiện đại, tự động hóa, đưa robot vào quy trình sản xuất. Do đó, lao động nữ là nhóm dễ bị mất việc làm nhất.

Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra một kết quả nghiên cứu về thị trường lao động Việt Nam trong 10 năm tới để từ đó thấy rằng, những công việc có thể bị thay thế bằng hệ thống máy móc tự động hóa là những việc có nhiều rủi ro. Những việc có nhiều rủi ro đó lại chính là những việc mà lao động nữ Việt Nam đang tham gia nhiều trong các lĩnh vực nông - lâm - thủy sản, bán lẻ... Theo ILO, ở Việt Nam, số việc làm mà phụ nữ hiện đang đảm nhiệm có khả năng sẽ bị chuyển sang tự động hóa cao gần 2,4 lần so với nam giới, đồng nghĩa với việc một lực lượng không nhỏ lao động trẻ là nữ đứng trước nguy cơ mất việc làm trong tương lai không xa.

Ông Bùi Sỹ Lợi, Phó chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội, là một người rất lạc quan trước những thay đổi tích cực về lao động, việc làm đối với nữ giới ở nhiều lĩnh vực, nhưng cũng phải thừa nhận: Nữ giới thiệt thòi hơn nam giới bởi định kiến của người tuyển dụng và những “khoảng tối” vẫn tồn tại trong cơ chế tuyển dụng.

Cũng chính từ đó, thu nhập của lao động nữ hiện nay nhìn chung thấp hơn nam giới và cơ hội thăng tiến cũng ít hơn. Một nghiên cứu của Tổng LĐLĐ Việt Nam cho thấy, thu nhập giữa lao động nữ và lao động nam còn chênh lệch nhiều, ví dụ: Giai đoạn 2009-2016, tiền lương bình quân của nữ luôn thấp hơn của nam, mức chênh lệch khoảng 30 USD trên tổng mức lương chưa tới 200 USD/người/tháng.

Khó bình đẳng giới nếu…

Ông Ngọ Duy Hiểu, Phó chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam nhấn mạnh, Đảng và Nhà nước đã ban hành các cơ chế, chính sách nhằm cải thiện và nâng cao điều kiện làm việc, đời sống vật chất, tinh thần, bình đẳng giới, vị thế của lao động nữ tại nơi làm việc với mục đích bảo đảm sự phát triển toàn diện, bền vững, phát huy đầy đủ giá trị cốt lõi, tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam. Mặc dù vậy, trong bối cảnh tác động đa chiều của cuộc CMCN 4.0, có không ít khó khăn cho lao động nữ. Chính vì vậy, Công đoàn Việt Nam và tất cả các bên liên quan cần suy nghĩ, tìm tòi, đề xuất các giải pháp để trao và nâng cao quyền năng cho phụ nữ và lao động nữ.

Để giải quyết vấn đề này, ông Choi Joo Ho, Tổng giám đốc Samsung Việt Nam, với kinh nghiệm của một người đang điều hành một nhà máy với khoảng 140.000 công nhân Việt Nam, trong đó chiếm 70% là lao động nữ, đề xuất: Trước những tác động sâu sắc và thách thức lớn của cuộc CMCN 4.0 mà lao động nữ Việt Nam phải đối mặt, Chính phủ, các bộ, ngành liên quan cùng doanh nghiệp và người lao động cần nhìn nhận thấu đáo, chuẩn bị tốt ngay từ bây giờ để không mất đi những thời cơ tốt cho lao động nữ.

Về phía Tổng LĐLĐ Việt Nam, ông Hiểu cho rằng, mặc dù trong Bộ luật Lao động sửa đổi, người lao động nói chung, lao động nữ nói riêng, đã được tôn trọng, được giải phóng khả năng, trí tuệ, được tiếp cận cuộc CMCN 4.0, nhưng vẫn cần quan tâm sửa đổi hệ thống pháp luật về giáo dục, đào tạo nghề. Bởi lẽ, khó thực hiện bình đẳng giới nếu phụ nữ không được tiếp cận với giáo dục, được đào tạo nghề đầy đủ. Trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật cần có hướng tiếp cận với quyền phụ nữ. Phải có hệ thống chính sách để hạn chế những tiêu cực của cuộc CMCN 4.0 đối với lao động nữ.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Xuân Bình, Giám đốc chiến lược Công ty TNHH Công nghệ Nexus Frontier, cũng cho rằng, trong cuộc CMCN 4.0, lao động nữ có phần thua thiệt, vì ở những giai đoạn trước, phụ nữ tiếp cận giáo dục, khoa công nghệ ít hơn nam giới, đây là vấn đề của lịch sử. Lao động nữ có lợi thế là tỉ mỉ, cần cù, giao tiếp tốt, làm chủ tình hình với sự mềm dẻo..., do đó, cần tạo điều kiện cho lao động nữ có những vị trí phù hợp trong các công ty, dù đó là công ty công nghệ, đòi hỏi kỹ thuật cao, để họ phát huy thế mạnh và nâng cao hiệu quả công việc chung.

Theo ILO, ở Việt Nam, số việc làm mà phụ nữ hiện đang đảm nhiệm có khả năng sẽ bị chuyển sang tự động hóa cao gần 2,4 lần so với nam giới, đồng nghĩa với việc một lực lượng không nhỏ lao động trẻ là nữ đứng trước nguy cơ mất việc làm trong tương lai không xa.

Nguyễn Bách

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
AVPL/SJC HCM 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,600 ▲350K 74,550 ▲350K
Nguyên liệu 999 - HN 73,500 ▲350K 74,450 ▲350K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
Cập nhật: 26/04/2024 10:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.200 ▲200K 74.950 ▲150K
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.200 ▲200K 74.950 ▲150K
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.200 ▲200K 74.950 ▲150K
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.200 ▲200K 74.950 ▲150K
Miền Tây - SJC 82.600 ▲600K 84.800 ▲500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.200 ▲200K 74.950 ▲150K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.200 ▲200K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.200 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.150 ▲250K 73.950 ▲250K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.210 ▲180K 55.610 ▲180K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.010 ▲140K 43.410 ▲140K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.510 ▲100K 30.910 ▲100K
Cập nhật: 26/04/2024 10:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,325 ▲20K 7,530 ▲20K
Trang sức 99.9 7,315 ▲20K 7,520 ▲20K
NL 99.99 7,320 ▲20K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,300 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,390 ▲20K 7,560 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,390 ▲20K 7,560 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,390 ▲20K 7,560 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Cập nhật: 26/04/2024 10:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,600 ▲600K 84,800 ▲500K
SJC 5c 82,600 ▲600K 84,820 ▲500K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,600 ▲600K 84,830 ▲500K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,300 ▲200K 75,000 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,300 ▲200K 75,100 ▲200K
Nữ Trang 99.99% 73,100 ▲200K 74,200 ▲200K
Nữ Trang 99% 71,465 ▲198K 73,465 ▲198K
Nữ Trang 68% 48,111 ▲136K 50,611 ▲136K
Nữ Trang 41.7% 28,594 ▲83K 31,094 ▲83K
Cập nhật: 26/04/2024 10:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,112.17 16,274.92 16,797.08
CAD 18,090.44 18,273.17 18,859.45
CHF 27,072.22 27,345.68 28,223.04
CNY 3,429.67 3,464.31 3,576.00
DKK - 3,579.44 3,716.52
EUR 26,496.28 26,763.92 27,949.19
GBP 30,880.63 31,192.55 32,193.34
HKD 3,156.04 3,187.92 3,290.20
INR - 303.48 315.61
JPY 157.98 159.58 167.21
KRW 15.95 17.72 19.33
KWD - 82,209.56 85,496.44
MYR - 5,249.99 5,364.51
NOK - 2,265.53 2,361.72
RUB - 261.73 289.74
SAR - 6,740.29 7,009.77
SEK - 2,281.68 2,378.56
SGD 18,179.62 18,363.26 18,952.42
THB 605.24 672.49 698.24
USD 25,118.00 25,148.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,276 16,376 16,826
CAD 18,293 18,393 18,943
CHF 27,278 27,383 28,183
CNY - 3,455 3,565
DKK - 3,592 3,722
EUR #26,691 26,726 27,986
GBP 31,271 31,321 32,281
HKD 3,160 3,175 3,310
JPY 159.47 159.47 167.42
KRW 16.6 17.4 20.2
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,269 2,349
NZD 14,848 14,898 15,415
SEK - 2,276 2,386
SGD 18,168 18,268 18,998
THB 631.09 675.43 699.09
USD #25,119 25,119 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25145 25145 25458
AUD 16348 16398 16903
CAD 18365 18415 18866
CHF 27510 27560 28122
CNY 0 3462.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26938 26988 27698
GBP 31441 31491 32159
HKD 0 3140 0
JPY 160.9 161.4 165.91
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0327 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14921 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19044
THB 0 645 0
TWD 0 779 0
XAU 8250000 8250000 8450000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 10:00