Cách mạng công nghiệp 4.0

Lao động nữ gặp nhiều rủi ro

13:01 | 07/11/2019

459 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, việc làm đối với lao động nữ trở nên khó khăn hơn, bởi định kiến phụ nữ “chân yếu tay mềm”, chỉ làm những việc giản đơn, thiên về lao động chân tay... đã ăn sâu vào tư duy không ít người sử dụng lao động.

Đối tượng yếu thế, thiệt thòi

Theo thống kê của Tổng Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) Việt Nam, hiện nay số lượng nữ giới trong độ tuổi lao động có 22,3 triệu người, chiếm 45,6% lực lượng lao động, làm việc ở nhiều lĩnh vực nhưng thiên về lao động giản đơn, không sử dụng nhiều công nghệ, máy móc hay kỹ thuật cao. Các chuyên gia lao động, chuyên gia về giới nhận định: Lao động nữ được xem là đối tượng yếu thế, dễ tổn thương do không nhận được sự đối xử công bằng, nhất là trong phân bổ việc làm theo khu vực, nghề nghiệp.

lao dong nu gap nhieu rui ro
Phần lớn lao động nữ chỉ làm việc đơn giản tại các doanh nghiệp

Bà Vũ Thị Thu Hằng, một chuyên gia nghiên cứu độc lập về giới, cho hay: Một số cuộc khảo sát đã chứng minh, lao động nữ tham gia tích cực vào nhiều ngành nghề, lĩnh vực. Song, vị trí việc làm của phụ nữ dễ bị thay thế bởi thường là lao động đơn giản. Họ ít được tuyển dụng vào những ngành nghề đòi hỏi kỹ thuật cao…

Chính vì vậy, trước xu thế CMCN 4.0 diễn ra mạnh mẽ, việc làm và cơ hội thăng tiến đối với lao động nữ là một thách thức lớn. Bà Hằng đơn cử, trong ngành da giày hay dệt may hiện nay, lao động nữ chủ yếu làm những công việc chân tay, không đòi hỏi cao về kỹ thuật. Trong khi đó, để đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0, các doanh nghiệp đang đầu tư ngày càng nhiều dây chuyền sản xuất hiện đại, tự động hóa, đưa robot vào quy trình sản xuất. Do đó, lao động nữ là nhóm dễ bị mất việc làm nhất.

Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra một kết quả nghiên cứu về thị trường lao động Việt Nam trong 10 năm tới để từ đó thấy rằng, những công việc có thể bị thay thế bằng hệ thống máy móc tự động hóa là những việc có nhiều rủi ro. Những việc có nhiều rủi ro đó lại chính là những việc mà lao động nữ Việt Nam đang tham gia nhiều trong các lĩnh vực nông - lâm - thủy sản, bán lẻ... Theo ILO, ở Việt Nam, số việc làm mà phụ nữ hiện đang đảm nhiệm có khả năng sẽ bị chuyển sang tự động hóa cao gần 2,4 lần so với nam giới, đồng nghĩa với việc một lực lượng không nhỏ lao động trẻ là nữ đứng trước nguy cơ mất việc làm trong tương lai không xa.

Ông Bùi Sỹ Lợi, Phó chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội, là một người rất lạc quan trước những thay đổi tích cực về lao động, việc làm đối với nữ giới ở nhiều lĩnh vực, nhưng cũng phải thừa nhận: Nữ giới thiệt thòi hơn nam giới bởi định kiến của người tuyển dụng và những “khoảng tối” vẫn tồn tại trong cơ chế tuyển dụng.

Cũng chính từ đó, thu nhập của lao động nữ hiện nay nhìn chung thấp hơn nam giới và cơ hội thăng tiến cũng ít hơn. Một nghiên cứu của Tổng LĐLĐ Việt Nam cho thấy, thu nhập giữa lao động nữ và lao động nam còn chênh lệch nhiều, ví dụ: Giai đoạn 2009-2016, tiền lương bình quân của nữ luôn thấp hơn của nam, mức chênh lệch khoảng 30 USD trên tổng mức lương chưa tới 200 USD/người/tháng.

Khó bình đẳng giới nếu…

Ông Ngọ Duy Hiểu, Phó chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam nhấn mạnh, Đảng và Nhà nước đã ban hành các cơ chế, chính sách nhằm cải thiện và nâng cao điều kiện làm việc, đời sống vật chất, tinh thần, bình đẳng giới, vị thế của lao động nữ tại nơi làm việc với mục đích bảo đảm sự phát triển toàn diện, bền vững, phát huy đầy đủ giá trị cốt lõi, tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam. Mặc dù vậy, trong bối cảnh tác động đa chiều của cuộc CMCN 4.0, có không ít khó khăn cho lao động nữ. Chính vì vậy, Công đoàn Việt Nam và tất cả các bên liên quan cần suy nghĩ, tìm tòi, đề xuất các giải pháp để trao và nâng cao quyền năng cho phụ nữ và lao động nữ.

Để giải quyết vấn đề này, ông Choi Joo Ho, Tổng giám đốc Samsung Việt Nam, với kinh nghiệm của một người đang điều hành một nhà máy với khoảng 140.000 công nhân Việt Nam, trong đó chiếm 70% là lao động nữ, đề xuất: Trước những tác động sâu sắc và thách thức lớn của cuộc CMCN 4.0 mà lao động nữ Việt Nam phải đối mặt, Chính phủ, các bộ, ngành liên quan cùng doanh nghiệp và người lao động cần nhìn nhận thấu đáo, chuẩn bị tốt ngay từ bây giờ để không mất đi những thời cơ tốt cho lao động nữ.

Về phía Tổng LĐLĐ Việt Nam, ông Hiểu cho rằng, mặc dù trong Bộ luật Lao động sửa đổi, người lao động nói chung, lao động nữ nói riêng, đã được tôn trọng, được giải phóng khả năng, trí tuệ, được tiếp cận cuộc CMCN 4.0, nhưng vẫn cần quan tâm sửa đổi hệ thống pháp luật về giáo dục, đào tạo nghề. Bởi lẽ, khó thực hiện bình đẳng giới nếu phụ nữ không được tiếp cận với giáo dục, được đào tạo nghề đầy đủ. Trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật cần có hướng tiếp cận với quyền phụ nữ. Phải có hệ thống chính sách để hạn chế những tiêu cực của cuộc CMCN 4.0 đối với lao động nữ.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Xuân Bình, Giám đốc chiến lược Công ty TNHH Công nghệ Nexus Frontier, cũng cho rằng, trong cuộc CMCN 4.0, lao động nữ có phần thua thiệt, vì ở những giai đoạn trước, phụ nữ tiếp cận giáo dục, khoa công nghệ ít hơn nam giới, đây là vấn đề của lịch sử. Lao động nữ có lợi thế là tỉ mỉ, cần cù, giao tiếp tốt, làm chủ tình hình với sự mềm dẻo..., do đó, cần tạo điều kiện cho lao động nữ có những vị trí phù hợp trong các công ty, dù đó là công ty công nghệ, đòi hỏi kỹ thuật cao, để họ phát huy thế mạnh và nâng cao hiệu quả công việc chung.

Theo ILO, ở Việt Nam, số việc làm mà phụ nữ hiện đang đảm nhiệm có khả năng sẽ bị chuyển sang tự động hóa cao gần 2,4 lần so với nam giới, đồng nghĩa với việc một lực lượng không nhỏ lao động trẻ là nữ đứng trước nguy cơ mất việc làm trong tương lai không xa.

Nguyễn Bách

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,900 ▼400K 120,900 ▼400K
AVPL/SJC HCM 118,900 ▼400K 120,900 ▼400K
AVPL/SJC ĐN 118,900 ▼400K 120,900 ▼400K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,830 ▼50K 11,250 ▼50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,820 ▼50K 11,240 ▼50K
Cập nhật: 04/07/2025 15:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.800 117.400
TPHCM - SJC 118.900 ▼400K 120.900 ▼400K
Hà Nội - PNJ 114.800 117.400
Hà Nội - SJC 118.900 ▼400K 120.900 ▼400K
Đà Nẵng - PNJ 114.800 117.400
Đà Nẵng - SJC 118.900 ▼400K 120.900 ▼400K
Miền Tây - PNJ 114.800 117.400
Miền Tây - SJC 118.900 ▼400K 120.900 ▼400K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 ▼400K 120.900 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.800
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 ▼400K 120.900 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.100 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.980 116.480
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.270 115.770
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.030 115.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.100 87.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.860 68.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.160 48.660
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.410 106.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.780 71.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.440 75.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.940 79.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.380 43.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.130 38.630
Cập nhật: 04/07/2025 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,270 11,720
Trang sức 99.9 11,260 11,710
NL 99.99 10,850 ▼15K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,850 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,480 11,780
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,480 11,780
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,480 11,780
Miếng SJC Thái Bình 11,890 ▼40K 12,090 ▼40K
Miếng SJC Nghệ An 11,890 ▼40K 12,090 ▼40K
Miếng SJC Hà Nội 11,890 ▼40K 12,090 ▼40K
Cập nhật: 04/07/2025 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16625 16893 17470
CAD 18717 18995 19613
CHF 32302 32685 33339
CNY 0 3570 3690
EUR 30167 30441 31469
GBP 34933 35327 36264
HKD 0 3203 3406
JPY 174 178 184
KRW 0 18 20
NZD 0 15551 16137
SGD 19994 20277 20806
THB 724 787 842
USD (1,2) 25907 0 0
USD (5,10,20) 25947 0 0
USD (50,100) 25976 26010 26352
Cập nhật: 04/07/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,990 25,990 26,350
USD(1-2-5) 24,950 - -
USD(10-20) 24,950 - -
GBP 35,342 35,438 36,328
HKD 3,275 3,285 3,384
CHF 32,596 32,697 33,515
JPY 177.99 178.31 185.87
THB 771.36 780.88 835.42
AUD 16,913 16,974 17,452
CAD 18,967 19,028 19,583
SGD 20,159 20,222 20,899
SEK - 2,691 2,784
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,062 4,202
NOK - 2,553 2,642
CNY - 3,605 3,702
RUB - - -
NZD 15,540 15,684 16,143
KRW 17.73 18.49 19.96
EUR 30,389 30,413 31,655
TWD 816.31 - 987.42
MYR 5,792.07 - 6,533.33
SAR - 6,861.31 7,221.27
KWD - 83,422 88,692
XAU - - -
Cập nhật: 04/07/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,010 26,010 26,350
EUR 30,234 30,355 31,484
GBP 35,175 35,316 36,313
HKD 3,270 3,283 3,388
CHF 32,425 32,555 33,488
JPY 177.34 178.05 185.45
AUD 16,872 16,940 17,483
SGD 20,199 20,280 20,834
THB 788 791 827
CAD 18,952 19,028 19,563
NZD 15,655 16,166
KRW 18.42 20.23
Cập nhật: 04/07/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26000 26000 26360
AUD 16855 16955 17520
CAD 18939 19039 19590
CHF 32608 32638 33512
CNY 0 3618.4 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30400 30450 31352
GBP 35297 35347 36457
HKD 0 3330 0
JPY 177.91 178.91 185.43
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15701 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20170 20300 21022
THB 0 754.4 0
TWD 0 900 0
XAU 11600000 11600000 12050000
XBJ 10800000 10800000 12050000
Cập nhật: 04/07/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,008 26,058 26,300
USD20 26,008 26,058 26,300
USD1 26,008 26,058 26,300
AUD 16,902 17,052 18,124
EUR 30,527 30,677 31,500
CAD 18,888 18,988 20,300
SGD 20,249 20,399 20,867
JPY 178.49 179.99 184.57
GBP 35,393 35,543 36,317
XAU 11,928,000 0 12,132,000
CNY 0 3,504 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 04/07/2025 15:00