Lãi suất huy động tăng, lãi suất cho vay khó thấp

06:45 | 01/05/2022

119 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Kể từ đầu năm đến nay, lãi suất huy động tại các ngân hàng thương mại liên tiếp được điều chỉnh theo xu hướng tăng đối với nhiều kỳ hạn, khiến cộng đồng doanh nghiệp lo ngại về nguy cơ đối mặt với những đợt tăng lãi suất cho vay trong thời gian tới.
Lãi suất huy động những tháng đầu năm 2022 đã nhích lên đáng kể so với mặt bằng chung năm 2021
Lãi suất huy động những tháng đầu năm 2022 đã nhích lên đáng kể so với mặt bằng chung năm 2021

Mới đây, Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam (MSB) công bố chương trình cộng thêm 0,8% lãi suất khi gửi tiền tiết kiệm online so với mức lãi suất gửi tiết kiệm tại quầy. Theo đó, với giao dịch gửi tiết kiệm online tối thiểu từ 1 triệu đồng tại MSB, khách hàng sẽ nhận ngay lãi suất 7%/năm với kỳ hạn 15 tháng và 6,8% với kỳ hạn 6 tháng và 12 tháng. Đây là mức lãi suất huy động thuộc nhóm cao nhất trên thị trường hiện nay.

Trước đó, nhiều ngân hàng như: Ngân hàng TMCP Nam Á (NamABank), Ngân hàng TMCP Bản Việt (VietCapitalBank), Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank)... đã điều chỉnh tăng thêm 0,1-0,3%/năm lãi suất tiết kiệm ở nhiều kỳ hạn.

Xét về mức lãi suất huy động cao nhất tại mỗi ngân hàng, Techcombank đang dẫn đầu với 7,8%/năm, tiếp sau đó là Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) 7,6%/năm, NamABank 7,4%/năm. Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), MSB hay VietCapitalBank cũng có mức lãi suất huy động cao 7-7,1%/năm... Tuy nhiên, để được hưởng mức lãi suất cao đó tại một số ngân hàng, khách hàng cần đáp ứng điều kiện gửi tiền từ vài trăm tỉ đồng trở lên.

Báo cáo từ Phòng Phân tích Công ty CP Chứng khoán Everest (EVS) cho thấy, lãi suất huy động đã nhích lên đáng kể so với mặt bằng chung năm 2021, trung bình 4,2-5,7%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn 6-12 tháng, 5,3-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn 13-24 tháng.

Ở chiều ngược lại, lãi suất cho vay bằng VND đối với các khoản cho vay mới và cũ còn dư nợ phổ biến 7,8-9,2%/năm. Trong đó, lãi suất cho vay ngắn hạn đối với lĩnh vực ưu tiên là 4,3%/năm, thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định là 4,5%/năm.

Dù vậy, EVS nhận định: Vẫn còn khoảng cách lớn giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng huy động trong thời gian qua. Kết hợp với áp lực về thanh khoản do yếu tố Tết Nguyên đán 2022 đã khiến lãi suất liên ngân hàng tăng mạnh lên mức 2,08% vào thời điểm cuối quý I/2022. Ngân hàng Nhà nước thực hiện hỗ trợ thanh khoản kịp thời với tổng lượng tiền bơm ra đỉnh điểm lên tới gần 16.000 tỉ đồng. Bên cạnh đó, Kho bạc Nhà nước tiếp tục nối dài hoạt động chào mua ngoại tệ, dự kiến sẽ mua thêm 150 triệu USD từ các ngân hàng thương mại, tương đương 3.400 tỉ đồng.

Chính phủ bắt đầu triển khai gói chính sách tiền tệ hỗ trợ lãi suất 2%/năm, tối đa 40.000 tỉ đồng cho một số ngành nghề ưu tiên
Chính phủ bắt đầu triển khai gói chính sách tiền tệ hỗ trợ lãi suất 2%/năm, tối đa 40.000 tỉ đồng cho một số ngành nghề ưu tiên

Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết, tính đến hết quý I/2022, tín dụng tăng 5,04%, mức tăng có thể nói là khá ấn tượng so với mấy năm qua và gấp 4 lần mức tăng tín dụng quý I/2021.

Con số đó phản ánh nhu cầu về vốn đang tăng mạnh trở lại để phục vụ sản xuất kinh doanh sau thời gian dài đình trệ vì dịch bệnh, đồng thời cũng lý giải phần nào cho áp lực thanh khoản, đẩy lãi suất liên ngân hàng và lãi suất huy động liên tiếp tăng.

Đánh giá mặt bằng lãi suất hiện khó có thể giảm, Trung tâm Phân tích của Công ty CP Chứng khoán SSI (SSI Research) dự báo từ nay đến cuối năm 2022, lãi suất tiền gửi và cho vay sẽ tăng dần, phụ thuộc nhiều vào khả năng hồi phục của nền kinh tế cũng như diễn biến của lạm phát.

Chưa dừng ở đó, đã có doanh nghiệp tỏ ra lo ngại khó sẽ chồng khó, bởi ngoài việc lãi suất cho vay có khả năng sẽ tăng thì kênh huy động bằng trái phiếu doanh nghiệp cũng sẽ bị siết chặt, tâm lý của nhà đầu tư trở nên e dè hơn sau những ồn ào của Tập đoàn Tân Hoàng Minh vừa qua.

Trao đổi về vấn đề này, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, giảng viên cao cấp Học viện Tài chính, cho rằng, việc thanh lọc thị trường là bước đi cần thiết. Dù đã có nhiều quy định về việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp, nhưng các quy định đó vẫn còn nhiều kẽ hở, khiến doanh nghiệp có thể “lách luật” phát hành trái phiếu “3 không” - không tài sản bảo đảm, không xếp hạng tín nhiệm và không bảo lãnh thanh toán - gây rủi ro lớn cho nhà đầu tư. Do đó, cơ quan quản lý cần siết chặt các quy định phát hành trái phiếu. Đồng thời, cơ chế quản lý, giám sát, xử phạt cũng cần chặt chẽ và nghiêm khắc hơn để bảo đảm sự phát triển lành mạnh và bền vững của một trong những phương thức huy động vốn rất quan trọng trong nền kinh tế.

Còn về tín dụng ngân hàng, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh nhận định, trước bối cảnh lãi suất huy động đang có xu hướng điều chỉnh tăng, lãi suất cho vay cũng có thể tăng nhẹ trong thời gian tới.

Ở góc độ của ngân hàng thương mại, một lãnh đạo ngân hàng cho biết, mặc dù lãi suất huy động đã tăng tại nhiều ngân hàng thương mại thời gian gần đây nhưng lãi suất cho vay có thể sẽ không có nhiều biến động.

Lý do trước hết là bởi không chỉ tại thời điểm này mà trong suốt hơn 2 năm qua kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát, các ngân hàng thương mại đã thực hiện chỉ đạo và chủ trương tiết giảm chi phí hoạt động để tập trung nguồn vốn hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng do dịch bệnh. Hơn nữa, các tổ chức tín dụng vẫn đang phải tuân thủ nghiêm các quy định về giảm lãi suất, cơ cấu nợ cho doanh nghiệp phục hồi sản xuất theo chỉ đạo của Chính phủ.

Thêm nữa, Quốc hội đã thông qua và Chính phủ cũng bắt đầu triển khai gói chính sách tiền tệ hỗ trợ lãi suất 2%/năm, tối đa 40.000 tỉ đồng cho một số ngành nghề ưu tiên. Đây là nguồn vốn cần thiết để tiếp sức cho doanh nghiệp hồi phục sau đại dịch.

Trước đó, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần điều chỉnh giảm lãi suất điều hành, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay.

Lãi suất huy động đã nhích lên đáng kể so với mặt bằng chung năm 2021, trung bình 4,2-5,7%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn 6-12 tháng, 5,3-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn 13-24 tháng.

Mỹ Phượng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,800 119,300
AVPL/SJC HCM 116,800 119,300
AVPL/SJC ĐN 116,800 119,300
Nguyên liệu 9999 - HN 10,870 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,860 11,190
Cập nhật: 20/05/2025 08:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.500 114.500
TPHCM - SJC 116.800 119.300
Hà Nội - PNJ 111.500 114.500
Hà Nội - SJC 116.800 119.300
Đà Nẵng - PNJ 111.500 114.500
Đà Nẵng - SJC 116.800 119.300
Miền Tây - PNJ 111.500 114.500
Miền Tây - SJC 116.800 119.300
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.500 114.500
Giá vàng nữ trang - SJC 116.800 119.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.500
Giá vàng nữ trang - SJC 116.800 119.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.500 114.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.500 114.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.500 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.390 113.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.690 113.190
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.460 112.960
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.150 85.650
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.340 66.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.070 47.570
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.020 104.520
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.190 69.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.750 74.250
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.170 77.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.400 42.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.270 37.770
Cập nhật: 20/05/2025 08:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,970 11,420
Trang sức 99.9 10,960 11,410
NL 99.99 10,530
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,530
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,180 11,480
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,180 11,480
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,180 11,480
Miếng SJC Thái Bình 11,680 11,930
Miếng SJC Nghệ An 11,680 11,930
Miếng SJC Hà Nội 11,680 11,930
Cập nhật: 20/05/2025 08:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16191 16458 17032
CAD 18069 18344 18963
CHF 30511 30887 31534
CNY 0 3358 3600
EUR 28634 28901 29932
GBP 33958 34347 35277
HKD 0 3186 3389
JPY 172 176 182
KRW 0 17 19
NZD 0 15023 15612
SGD 19507 19787 20315
THB 700 763 816
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26130
Cập nhật: 20/05/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,770 25,770 26,130
USD(1-2-5) 24,739 - -
USD(10-20) 24,739 - -
GBP 34,173 34,265 35,191
HKD 3,260 3,270 3,369
CHF 30,671 30,766 31,623
JPY 175.4 175.72 183.61
THB 747.96 757.2 810.15
AUD 16,431 16,491 16,937
CAD 18,346 18,405 18,899
SGD 19,678 19,739 20,365
SEK - 2,624 2,718
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,839 3,971
NOK - 2,463 2,552
CNY - 3,560 3,656
RUB - - -
NZD 14,971 15,110 15,550
KRW 17.34 18.09 19.42
EUR 28,679 28,702 29,923
TWD 777.25 - 940.28
MYR 5,646.84 - 6,374.58
SAR - 6,802.33 7,160.02
KWD - 82,231 87,436
XAU - - -
Cập nhật: 20/05/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,426 28,540 29,642
GBP 33,868 34,004 34,975
HKD 3,250 3,263 3,369
CHF 30,456 30,578 31,483
JPY 174.53 175.23 182.51
AUD 16,288 16,353 16,882
SGD 19,627 19,706 20,245
THB 759 762 796
CAD 18,237 18,310 18,820
NZD 15,025 15,531
KRW 17.70 19.51
Cập nhật: 20/05/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16366 16466 17032
CAD 18251 18351 18905
CHF 30739 30769 31654
CNY 0 3562.2 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28903 29003 29776
GBP 34248 34298 35409
HKD 0 3270 0
JPY 175.63 176.63 183.14
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15133 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19672 19802 20523
THB 0 729.3 0
TWD 0 845 0
XAU 11700000 11700000 11930000
XBJ 10000000 10000000 11930000
Cập nhật: 20/05/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,760 25,810 26,140
USD20 25,760 25,810 26,140
USD1 25,760 25,810 26,140
AUD 16,355 16,505 17,581
EUR 28,838 28,988 30,165
CAD 18,188 18,288 19,603
SGD 19,715 19,865 20,332
JPY 176.06 177.56 182.26
GBP 34,250 34,400 35,190
XAU 11,678,000 0 11,932,000
CNY 0 3,445 0
THB 0 763 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/05/2025 08:00