Kỷ nguyên dầu giá rẻ đã kết thúc?

14:21 | 19/12/2022

4,629 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo một số nhà phân tích, sự sụt giảm gần đây của giá dầu có thể không phải là dấu hiệu cho những gì sắp xảy ra trên thị trường dầu mỏ.

Trong báo cáo mới nhất, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) tiết lộ họ lại không sản xuất được nhiều dầu như mức cam kết trong cuộc họp mới đây. Sự thiếu hụt này cũng không còn chỉ xảy ra khoảng vài nghìn thùng dầu mỗi ngày nữa mà đã lên khoảng 1,8 triệu thùng/ngày. Nhưng điều quan trọng hơn là việc luôn không đạt được sản lượng mục tiêu đã trở thành điều bình thường của liên minh xuất khẩu dầu mỏ này.

Kỷ nguyên dầu giá rẻ đã kết thúc? - 1
Mỹ đang cần mua thêm dầu sau khi đã giải phóng 200 triệu thùng dầu từ kho dự trữ chiến lược trong năm nay (Ảnh: Reuters).

Trong khi đó, chính phủ liên bang Mỹ đang cần mua thêm dầu cho kho dự trữ chiến lược sau khi giải phóng gần 200 triệu thùng dầu trong năm nay nhằm hạ nhiệt giá dầu. Tuy nhiên, các công ty khoan dầu của Mỹ vẫn chưa vội vàng tăng sản lượng. Ngược lại, tăng trưởng sản lượng dường như không phải là ưu tiêu hàng đầu của các công ty này.

Các lệnh trừng phạt Nga, được nhiều người kỳ vọng sẽ làm tổn hại đến sản lượng khai thác dầu của nước này. Tuy nhiên, điều đó hiện vẫn chưa xảy ra. Trên thực tế, các biện pháp trừng phạt dầu Nga như áp giá trần và cấm vận xuất khẩu sang EU vẫn chưa tác động đến dòng chảy của dầu Nga ra thị trường, ít nhất cho đến lúc này.

Các ngân hàng đầu tư cho rằng, giá dầu sẽ cao hơn, bất chấp sự sụt giảm gần đây do lo ngại kinh tế suy thoái gia tăng trên toàn cầu. Những lo ngại này phần lớn dựa trên việc Trung Quốc có thể đảo ngược chính sách zero-Covid. Tuy nhiên, họ cũng cho rằng, thực tế dầu vẫn là mặt hàng cần thiết và kỷ nguyên dầu giá rẻ có thể đã kết thúc.

"Chúng tôi vẫn duy trì quan điểm tích cực về giá dầu do nhu cầu phục hồi (Trung Quốc mở cửa, hàng không phục hồi) trong bối cảnh nguồn cung hạn chế do mức đầu tư thấp, rủi ro nguồn cung ở Nga cùng với đó là Mỹ kết thúc việc xả kho dự trữ chiến lược và hoạt động khai thác đá phiến chậm lại", Morgan Stanley cho biết.

Tuy nhiên, trong bình luận gần đây, Matt Sallee - Chủ tịch kiêm Giám đốc danh mục đầu tư của TortoiseEcoFin cho rằng tình hình về nguồn cung có thể nghiêm trọng hơn nhiều. "Dự trữ dầu toàn cầu đang ở mức thấp nhất kể từ năm 2004, trong năm nay Bộ Năng lượng Mỹ cũng đã giải phóng 200 triệu thùng dầu từ kho dự trữ chiến lược, OPEC tiếp tục khó khăn để sản xuất ở mức mà họ đặt ra, trong khi các nhà sản xuất ở Mỹ vẫn không làm được gì nhiều", ông nói.

Theo ông, ngành sản xuất dầu của Mỹ có thể sẽ không còn đạt được mức tăng kỷ lục về sản lượng hàng năm trên 1 triệu thùng/ngày như thời gian qua. Thay vào đó, ông cho rằng, mức tăng chỉ có thể từ mức 500.000 - 700.000 thùng/ngày. Đây không phải là tin tốt với người tiêu dùng vì nhu cầu sẽ không giảm.

Trong báo cáo mới nhất, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cũng đã nâng dự báo về nhu cầu dầu trong năm tới do mức tiêu thụ bất ngờ tăng trong năm nay.

OilPrice cho rằng, trong trường hợp cung và cầu trên thị trường dầu vẫn ở trạng thái bấp bênh, liên tục bị thiếu hụt hoặc thậm chí rơi vào tình trạng thiếu hụt trầm trọng thì kỷ nguyên dầu thô giá rẻ có thể đã kết thúc.

Theo Dân trí

Nga bán dầu cho Ấn Độ thấp hơn cả giá trần phương Tây áp đặtNga bán dầu cho Ấn Độ thấp hơn cả giá trần phương Tây áp đặt
Nga trả đũa trần giá dầu chỉ mang tính hình thứcNga trả đũa trần giá dầu chỉ mang tính hình thức
Những yếu tố nào đang khiến giá dầu giảm?Những yếu tố nào đang khiến giá dầu giảm?
Mỹ bắt đầu bổ sung kho dự trữ dầu chiến lượcMỹ bắt đầu bổ sung kho dự trữ dầu chiến lược
Tin hoạt động của các công ty năng lượng trong tuần qua (12/-17/12)Tin hoạt động của các công ty năng lượng trong tuần qua (12/-17/12)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,450 75,450
Nguyên liệu 999 - HN 74,350 75,350
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 01/05/2024 14:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 75.600
TPHCM - SJC 83.000 85.200
Hà Nội - PNJ 73.800 75.600
Hà Nội - SJC 83.000 85.200
Đà Nẵng - PNJ 73.800 75.600
Đà Nẵng - SJC 83.000 85.200
Miền Tây - PNJ 73.800 75.600
Miền Tây - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 74.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 56.030
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 43.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 31.140
Cập nhật: 01/05/2024 14:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 7,590
Trang sức 99.9 7,375 7,580
NL 99.99 7,380
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 7,620
Miếng SJC Thái Bình 8,320 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,320 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,320 8,520
Cập nhật: 01/05/2024 14:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 85,200
SJC 5c 83,000 85,220
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 85,230
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 75,500
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 75,600
Nữ Trang 99.99% 73,700 74,700
Nữ Trang 99% 71,960 73,960
Nữ Trang 68% 48,451 50,951
Nữ Trang 41.7% 28,803 31,303
Cập nhật: 01/05/2024 14:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 01/05/2024 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,099 16,119 16,719
CAD 18,084 18,094 18,794
CHF 26,997 27,017 27,967
CNY - 3,429 3,569
DKK - 3,531 3,701
EUR #26,146 26,356 27,646
GBP 31,053 31,063 32,233
HKD 3,110 3,120 3,315
JPY 156.32 156.47 166.02
KRW 16.07 16.27 20.07
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,198 2,318
NZD 14,664 14,674 15,254
SEK - 2,223 2,358
SGD 18,000 18,010 18,810
THB 627.73 667.73 695.73
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 01/05/2024 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 01/05/2024 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 01/05/2024 14:00