Kinh tế vĩ mô Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức

15:12 | 19/04/2019

416 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Trước chỉ số các lĩnh vực đạt được trong quý I/2019 khá khả quan, nhưng theo Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Việt Nam sẽ phải đối mặt với không ít thách thức, nhất là trong kinh tế vĩ mô từ quý II đến quý IV.    
kinh te vi mo viet nam se phai doi mat voi nhieu thach thuc trong thoi gian toiADB: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam sẽ giảm trong năm nay và năm sau
kinh te vi mo viet nam se phai doi mat voi nhieu thach thuc trong thoi gian toiTS Trần Đình Thiên: "Việt Nam cần những doanh nghiệp tư nhân đủ lớn để bứt phá"
kinh te vi mo viet nam se phai doi mat voi nhieu thach thuc trong thoi gian toiTạo sức bật mới phát triển nhanh và bền vững

Đây là nhận định của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương tại Hội thảo "Kinh tế vĩ mô Việt Nam: Kiên trì cải cách trong bối cảnh thế giới bất định” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức sáng nay tại Hà Nội.

Theo Báo cáo Kinh tế vĩ mô quý I/2019 được công bố tại hội thảo, thống kê 3 tháng đầu năm cho thấy khá ấn tượng: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 6,79%, thấp hơn so với quý I năm 2018, song vẫn cao hơn cùng kỳ nhiều năm từ 2009-2017. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký đạt 10,8 tỷ USD, tăng 86,2% so với cùng kỳ năm ngoái và cao hơn nhiều lần so với cùng kỳ những năm gần đây, tổng giá trị xuất khẩu đạt 58,86%, tăng 5,3% so với cùng kỳ 2018.

Dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2019 ước đạt 6,88%. Tăng trưởng xuất khẩu dự báo ở mức 9,02%. Thặng dư thương mại ở mức 3,1 tỷ USD. Mức tăng giá tiêu dùng trong năm khoảng 3,71%.

kinh te vi mo viet nam se phai doi mat voi nhieu thach thuc trong thoi gian toi
(Ảnh minh họa)

Trước những con số trên, CIEM nhận định tình hình khả quan chính là do điều hành của Chính phủ đã tiếp tục ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường kinh doanh và sức chống chịu của nền kinh tế. Diễn biến tăng trưởng kinh tế và lạm phát tiếp tục được theo dõi sát, với không ít động thái, thông điệp điều hành xuyên suốt quý I.

Ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Kinh tế vĩ mô của CIEM phân tích, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đà mở rộng tăng trưởng, đà phục hồi tăng trưởng trong những năm qua nhờ một phần quan trọng từ những cải cách thể chế kinh tế nói chung và môi trường kinh doanh nói riêng.

Một điểm nhấn của điều hành được ghi nhận nữa là hiệu quả phối hợp của chính sách tài khóa với các chính sách kinh tế vĩ mô khác được cải thiện đáng kể. Công tác điều hành tài khóa và cơ cấu lại ngân sách nhà nước ít nhiều đã mang lại hiệu quả tích cực. Điều hành chính sách tài khóa đã ít nhiều linh hoạt hơn.

Những kết quả kinh tế - xã hội khá ấn tượng tạo nên kỳ vọng sẽ tiếp đà để bứt phá trong năm 2019 hướng tới hoàn thành mục tiêu kế hoạch cho cả giai đoạn 2016-2020.

Tuy nhiên trong bối cảnh kinh tế giới bất định như hiện nay, dư địa cho chính sách kinh tế vĩ mô để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế lại không còn nhiều do đó sẽ không ít khó khăn, thách thức để hiện thực hóa kỳ vọng mà Chính phủ đã đặt ra. Cụ thể diễn biến kinh tế vĩ mô của nước ta từ nay đến cuối năm có thể chịu ảnh hưởng của một số yếu tố bên ngoài bao gồm rủi ro suy thoái của kinh tế Mỹ gia tăng; căng thẳng thương mại trong khu vực; hàng xuất khẩu của Việt Nam có thể đối mặt với nhiều hàng rào kỹ thuật hơn ở các thị trường nước ngoài, kể cả thị trường CPTPP, xu thế tăng trưởng GDP tiếp tục suy giảm..

kinh te vi mo viet nam se phai doi mat voi nhieu thach thuc trong thoi gian toi
Ảnh minh họa

Để giải quyết những khó khăn trên, ông Dương lưu ý Việt Nam cần lưu tâm xử lý những thách thức về nền tảng kinh tế vĩ mô. Tình trạng nợ đọng văn bản quy phạm pháp luật còn phổ biến, dẫn tới tình trạng tư duy, chính sách mới chậm đi vào thực hiện.

Quan trọng hơn, hiệu lực thực thi chính sách vẫn chậm được cải thiện. Việc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thường xuyên nhắc lại những nhóm giải pháp trọng tâm về phát triển kinh tế - xã hội phần nào cho thấy sự sát sao, song mặt khác cũng cho thấy các nhóm giải pháp chưa được nhận thức hoặc thực hiện chưa đầy đủ.

Theo Ngân hàng thế giới, khi chỉ số về chất lượng văn bản pháp luật hướng tới sự phát triển của khu vực tư nhân cứ tăng được 1% thì tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ cải thiện được 1,3 điểm %.

Có một vấn đề cần lưu ý là khu vực doanh nghiệp (DN) tiếp tục có sự điều chỉnh mạnh về cơ cấu. Các DN chế biến chế tạo bớt lạc quan hơn về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý I. Cộng đồng DN vẫn gặp khó khăn về gia nhập thị trường, nhất là gánh nặng “hậu đăng ký DN” và tiếp cận thông tin minh bạch, lo ngại về lãi suất cao…

Kiến nghị một số định hướng đổi mới kinh tế bao gồm cả thể chế kinh tế và giải pháp chính sách điều hành kinh tế vĩ mô trong năm 2019, các ý kiến tại hội thảo nhấn mạnh lại thông điệp: Việc ưu tiên chính sách tập trung cải thiện nền tảng kinh tế vĩ mô và đổi mới hệ thống thể chế kinh tế cho một nền kinh tế thị trường hiện đại.

Trong khi đó, GS.TS Nguyễn Quang Thái nêu lên thực trạng nỗi lo tụt hậu lần hai, khi mà Việt Nam đang tiến lên với những bước tiến không nhanh không dài bằng các nước khác. Vì vậy không nên bằng lòng với những gì đang làm để mà không tăng tốc, không quyết liệt.

Cũng cùng quan điểm, Viện trưởng CIEM Nguyễn Đình Cung bày tỏ tuy tự hào nhưng không nên quá thỏa mãn với những lời khen và những ghi nhận các tổ chức quốc tế dành cho những thành tích của Việt Nam. Bởi nếu thỏa mãn sẽ tụt hậu trong cải cách.

Đề cập đến các vấn đề kinh tế vĩ mô nổi bật, báo cáo của CIEM và các chuyên gia đã nói đến yêu cầu thành lập Trung tâm đổi mới sáng tạo (TTĐMST) như Chính phủ đã quyết định và giao cho Bộ Kế hoạch & Đầu tư xây dựng đề án.

Các nước đang chạy đua ứng dụng các công nghệ tiên tiến để chuyển đổi nền sản xuất, phát triển các giải pháp công nghệ mới… Trong cuộc chạy đua này, nhiều nước đã và đang xây dựng các TTĐMST để thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo trong nước.

Viện trưởng Nguyễn Đình Cung nhấn mạnh đến yếu tố mới và sáng tạo, “dịch vụ mới, sản phẩm mới, công nghệ mới, ý tưởng mới… đó là động lực của tăng trưởng”. Việt Nam cần có một TTĐMST đúng nghĩa theo thực tiễn quốc tế tốt nhất để có thể tăng trưởng nhanh hơn để có thể sớm đuổi kịp các nước trong khu vực. Trung tâm này sẽ tạo ra một hệ sinh thái cho đổi mới sáng tạo và theo các chuyên gia, để thành công cần có cơ chế đặc thù cho trung tâm.

Tú Anh

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 119,000 121,000
AVPL/SJC HCM 119,000 121,000
AVPL/SJC ĐN 119,000 121,000
Nguyên liệu 9999 - HN 11,380 11,560
Nguyên liệu 999 - HN 11,370 11,550
Cập nhật: 27/04/2025 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.500 117.500
TPHCM - SJC 119.000 121.000
Hà Nội - PNJ 114.500 117.500
Hà Nội - SJC 119.000 121.000
Đà Nẵng - PNJ 114.500 117.500
Đà Nẵng - SJC 119.000 121.000
Miền Tây - PNJ 114.500 117.500
Miền Tây - SJC 119.000 121.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.500 117.500
Giá vàng nữ trang - SJC 119.000 121.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.500
Giá vàng nữ trang - SJC 119.000 121.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.500 117.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.500 117.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.500 117.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 114.380 116.880
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.660 116.160
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.430 115.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.400 87.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 61.100 68.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.320 48.820
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.770 107.270
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 64.020 71.520
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.700 76.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 72.210 79.710
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.530 44.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.260 38.760
Cập nhật: 27/04/2025 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,370 11,890
Trang sức 99.9 11,360 11,880
NL 99.99 11,370
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,370
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,600 11,900
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,600 11,900
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,600 11,900
Miếng SJC Thái Bình 11,900 12,100
Miếng SJC Nghệ An 11,900 12,100
Miếng SJC Hà Nội 11,900 12,100
Cập nhật: 27/04/2025 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16106 16373 16968
CAD 18241 18517 19146
CHF 30784 31161 31812
CNY 0 3358 3600
EUR 28936 29205 30250
GBP 33839 34228 35179
HKD 0 3223 3427
JPY 174 178 184
KRW 0 0 19
NZD 0 15194 15796
SGD 19238 19518 20058
THB 691 754 808
USD (1,2) 25754 0 0
USD (5,10,20) 25793 0 0
USD (50,100) 25821 25855 26210
Cập nhật: 27/04/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,840 25,840 26,200
USD(1-2-5) 24,806 - -
USD(10-20) 24,806 - -
GBP 34,194 34,286 35,198
HKD 3,294 3,304 3,405
CHF 30,966 31,062 31,915
JPY 177.39 177.71 185.69
THB 739.71 748.85 801.18
AUD 16,404 16,463 16,916
CAD 18,522 18,582 19,085
SGD 19,445 19,505 20,126
SEK - 2,636 2,739
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,894 4,029
NOK - 2,447 2,540
CNY - 3,532 3,629
RUB - - -
NZD 15,172 15,313 15,763
KRW 16.79 17.51 18.82
EUR 29,115 29,138 30,380
TWD 721.86 - 873.86
MYR 5,558.71 - 6,274.65
SAR - 6,819.9 7,178.24
KWD - 82,586 87,810
XAU - - -
Cập nhật: 27/04/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,850 25,855 26,195
EUR 28,989 29,105 30,216
GBP 34,032 34,169 35,142
HKD 3,289 3,302 3,409
CHF 30,868 30,992 31,889
JPY 176.78 177.49 184.83
AUD 16,316 16,382 16,911
SGD 19,447 19,525 20,054
THB 755 758 792
CAD 18,451 18,525 19,042
NZD 15,261 25,771
KRW 17.30 19.06
Cập nhật: 27/04/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25800 25800 26200
AUD 16285 16385 16960
CAD 18425 18525 19082
CHF 31029 31059 31933
CNY 0 3534.8 0
CZK 0 1140 0
DKK 0 3965 0
EUR 29119 29219 30094
GBP 34143 34193 35301
HKD 0 3358 0
JPY 178.05 178.55 185.11
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6161 0
NOK 0 2507 0
NZD 0 15305 0
PHP 0 434 0
SEK 0 2711 0
SGD 19397 19527 20262
THB 0 720.3 0
TWD 0 796 0
XAU 11900000 11900000 12100000
XBJ 11400000 11400000 12100000
Cập nhật: 27/04/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,211
USD20 25,850 25,900 26,211
USD1 25,850 25,900 26,211
AUD 16,335 16,485 17,569
EUR 29,269 29,419 30,608
CAD 18,375 18,475 19,803
SGD 19,477 19,627 20,114
JPY 178.05 179.55 184.32
GBP 34,243 34,393 35,191
XAU 11,848,000 0 12,052,000
CNY 0 3,420 0
THB 0 755 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 27/04/2025 23:00