Kinh tế thế giới dần lấy lại đà

13:27 | 02/02/2021

193 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo dự báo của các tổ chức quốc tế, triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2021 sẽ được cải thiện đáng kể sau mức sụt giảm kỷ lục năm 2020 do hệ lụy nghiêm trọng của đại dịch COVID-19.

Năm 2020 là một năm đầy biến động với nền kinh tế toàn cầu, đại dịch COVID-19 đã khiến hầu hết các nền kinh tế rơi vào suy thoái nghiêm trọng, các gói kích thích kinh tế chưa từng có tiền lệ được các ngân hàng Trung ương và các chính phủ các nước trên thế giới thực hiện đã phần nào thúc đẩy phục hồi các nền kinh tế. Bước sang năm 2021, với sự lạc quan về vaccine ngừa COVID-19 có hiệu nghiệm, các quốc gia vẫn duy trì các biện pháp kích thích tài chính và hy vọng sự quay trở lại tăng trưởng của các nền kinh tế trong năm nay.

Theo dự báo của các tổ chức quốc tế, triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2021 sẽ được cải thiện đáng kể sau mức sụt giảm kỷ lục năm 2020 do hệ lụy nghiêm trọng của đại dịch COVID-19.

Theo OECD (báo cáo tháng 12/2020), kinh tế thế giới năm 2021 sẽ tăng trưởng 4,2% (từ mức giảm 4,1% năm 2020). Ngân hàng Thế giới (báo cáo tháng 01/2021) dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2021 có thể đạt 4% (so với mức giảm 4,3% trong năm 2020). Đến thời điểm cuối năm 2020 đầu năm 2021, trong khi các nước khu vực Đông Á/Đông Nam Á đang được đánh giá khá tốt trong việc kiểm soát dịch bệnh và tiến nhanh hơn tới phục hồi kinh tế, thì ở khu vực châu Âu, châu Mỹ và Ấn Độ, tình hình dịch bệnh vẫn diễn biến khó lường, đặc biệt là cảnh báo về biến thể mới của COVID-19 có khả năng dẫn đến làn sóng bùng dịch lần 3. Theo đó, kinh tế thế giới năm 2021 sẽ tiếp tục đối mặt với rủi ro về diễn biến của đại dịch COVID-19, trong đó có khả năng đưa vaccine COVID-19 vào phòng bệnh trên diện rộng và mức độ phục hồi không đồng đều giữa các nền kinh tế trong và sau COVID-19.

Triển vọng một số nền kinh tế chủ yếu

Chính phủ Mỹ đã ban hành nhiều gói kích thích trong năm 2020 với tổng trị giá 2.200 tỷ USD, tuy nhiên phần lớn những hoạt động hỗ trợ này đến nay đã hết hạn. Năm 2021, kế hoạch mang tên "Giải cứu nước Mỹ" trị giá 1.900 tỷ USD được Tổng thống Joe Biden đề xuất sẽ tăng thêm mức cứu trợ cho người thất nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và chính quyền các tiểu bang với hy vọng sẽ vực dậy lại nước Mỹ đang chịu cuộc khủng hoảng kép về dịch bệnh và kinh tế.

Cơ quan hoạch định chính sách của Fed vẫn tin tưởng kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng 4,2% trong năm 2021 và 3,2% trong năm 2022, cao hơn so với những dự báo đưa ra trước đó.

Khu vực đồng tiền chung châu Âu dự báo sẽ chứng kiến mức tăng trưởng 3,9% trong năm 2021, thấp hơn so với dự báo trước đó là 5%. Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ bổ sung biện pháp kích thích kinh tế mới để ứng phó tình trạng suy thoái kinh tế của khu vực trị giá 500 tỷ EUR (tương đương 605 tỷ USD) vào chương trình mua trái phiếu khẩn cấp (PEPP) và đưa tổng giá trị chương trình lên 1.850 tỷ EUR. Các biện pháp chính sách tiền tệ đưa ra với hy vọng sẽ góp phần tạo ra điều kiện tài chính thuận lợi trong giai đoạn đại dịch, theo đó hỗ trợ dòng chảy tín dụng đến tất cả các khu vực của nền kinh tế, trợ lực cho các hoạt động kinh tế, bảo vệ sự ổn định giá cả trong trung hạn. Tuy nhiên, châu Âu đang phải đối mặt với làn sóng COVID-19 mới, nhiều nền kinh tế lớn ở châu Âu gồm Đức, Pháp và Italy phải phong tỏa.

Nhìn về châu Á, Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra gói cứu trợ trị giá 1.100 tỷ USD ngay thời điểm dịch COVID-19 bùng phát ở nước này. Tuy nhiên, gói cứu trợ này không giúp nền kinh tế thoát khỏi suy thoái sau 2 quý tăng trưởng âm liên tiếp do ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19. Mới đây, Chính phủ Nhật Bản công bố gói kích thích kinh tế mới trị giá 73.600 tỷ yen (tương đương 708 tỷ USD) vào chi tiêu tài khóa trực tiếp và các sáng kiến giảm phát thải carbon và thúc đẩy công nghệ số. Trong thời gian tới, làn sóng COVID-19 lần thứ 3 được dự báo có thể kìm hãm đà phục hồi tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản. Với năm tài khóa hiện tại sẽ kết thúc vào tháng 3/2021. Nhật Bản được dự báo tăng trưởng GDP có thể được gia tăng đột phá ở mức 2,2 % năm 2021.

GDP của Hàn Quốc được dự báo sẽ tăng trưởng từ 2,5% đến 3,3% trong năm nay. Đây là dự báo tích cực trước khi nền kinh tế bước vào giai đoạn phục hồi hoàn toàn. Bất chấp cú sốc từ đại dịch COVID-19, nền kinh tế Hàn Quốc hoạt động tương đối tốt trong năm 2020 nhờ xuất khẩu mạnh mẽ. Sự phục hồi sớm của kinh tế Trung Quốc đã góp phần tăng khối lượng thương mại toàn cầu và xuất khẩu của Hàn Quốc cũng được hưởng lợi. Hơn nữa, Chính phủ nước này cũng đã thực hiện nhiều chính sách hiệu quả như thông qua gói ngân sách bổ sung. Thêm nữa, việc bãi bỏ bớt các quy chế để doanh nghiệp có thể thúc đẩy công nghệ mới, nâng cao khả năng cạnh tranh, giúp các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả cao trở thành công ty toàn cầu, tăng cường xuất khẩu là chìa khóa của nền kinh tế Hàn Quốc trong thời gian tới.

Về kinh tế Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới tiếp tục phục hồi nhanh sau đại dịch nhờ các biện pháp kiểm soát mạnh mẽ và các hành động chính sách kịp thời nhằm giảm thiểu tác động của cuộc khủng hoảng.

Trong Báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới (WEO) mới nhất (T10/2020), IMF dự báo tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc năm 2021 là 7,9%. Tuy nhiên, IMF cũng lưu ý tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chưa đồng đều khi đà phục hồi chủ yếu dựa vào hỗ trợ công trong khi tiêu dùng cá nhân đang chững lại.

Giá dầu, vàng giảm

Giá dầu thế giới đã giảm hơn 2% trong trung tuần tháng 1 năm 2021. Giá dầu Brent giảm 1,32 USD (tương đương 2,3% xuống 55,1 USD/thùng), giá dầu thô WTI giảm 1,21 USD/thùng (tương đương 2,3%) ở mức 52,36 USD/thùng. Diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19 khiến nhiều quốc gia đang lên kế hoạch kéo dài thời gian phong toả, giãn cách xã hội đang làm gia tăng lo ngại khả năng tiêu thụ nhiên liệu và đây là nguyên nhân chính khiến giá dầu có xu hướng giảm mạnh. Giá dầu còn chịu áp lực giảm giá bởi một loạt các dữ liệu vừa được công bố cho thấy “sức khoẻ” của các nền kinh tế hàng đầu như Mỹ, Anh... đều đang gặp vấn đề. Đặc biệt, nhiều thành phố của Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ dầu thô lớn thứ 2 thế giới, đã phải tái thiết lập các biện pháp phong toả nhằm ngăn chặn dịch COVID-19.

Giá vàng thế giới được cho là sẽ còn giảm khi tín dụng của các gói cứu trợ nhằm vực dậy nền kinh tế Mỹ do tác động của dịch COVID-19 còn chưa rõ ràng. Cụ thể, trong trung tuần tháng 1 năm 2021, giá vàng giảm hơn 1% và kim loại quý này đang hướng tới mức giảm thứ hai liên tiếp. Giá vàng giao ngay trên sàn Kitco giảm 1% hiện xuống 1.829,60 USD/ounce, đồng thời giá vàng giao dịch kỳ hạn tại Mỹ giảm 1,2% xuống 1.829,90 USD/ounce. Giá vàng thế giới được cho là sẽ còn giảm khi triển vọng gói cứu trợ nhằm vực dậy nền kinh tế Mỹ do tác động của dịch COVID-19 còn chưa rõ ràng.

Theo baochinhphu.vn

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 ▲1250K 75,450 ▲1250K
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 ▲1250K 75,350 ▲1250K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Cập nhật: 26/04/2024 18:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
TPHCM - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Hà Nội - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Hà Nội - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Đà Nẵng - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Đà Nẵng - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Miền Tây - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Miền Tây - SJC 83.000 ▲1000K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 ▲800K 74.500 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 ▲600K 56.030 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 ▲460K 43.730 ▲460K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 ▲330K 31.140 ▲330K
Cập nhật: 26/04/2024 18:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 ▲80K 7,590 ▲80K
Trang sức 99.9 7,375 ▲80K 7,580 ▲80K
NL 99.99 7,380 ▲80K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Nghệ An 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Hà Nội 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Cập nhật: 26/04/2024 18:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 ▲1000K 85,200 ▲900K
SJC 5c 83,000 ▲1000K 85,220 ▲900K
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 ▲1000K 85,230 ▲900K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 ▲700K 75,500 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 ▲700K 75,600 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 73,700 ▲800K 74,700 ▲700K
Nữ Trang 99% 71,960 ▲693K 73,960 ▲693K
Nữ Trang 68% 48,451 ▲476K 50,951 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 28,803 ▲292K 31,303 ▲292K
Cập nhật: 26/04/2024 18:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,235 16,255 16,855
CAD 18,243 18,253 18,953
CHF 27,259 27,279 28,229
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,556 3,726
EUR #26,327 26,537 27,827
GBP 31,143 31,153 32,323
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 157.47 157.62 167.17
KRW 16.22 16.42 20.22
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,223 2,343
NZD 14,822 14,832 15,412
SEK - 2,250 2,385
SGD 18,059 18,069 18,869
THB 632.61 672.61 700.61
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 18:45