Kinh tế Mỹ tăng vững dù đồng USD suy yếu

19:39 | 14/09/2017

845 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Theo báo cáo của Bộ Thương mại Mỹ, GDP quý II/2017 của Mỹ tăng 2,6%, chủ yếu nhờ tiêu dùng, đầu tư và thương mại tăng trở lại. Cùng với tiêu dùng, hoạt động kinh doanh sôi động đã củng cố đà tăng trưởng kinh tế với kỳ vọng GDP năm 2017 sẽ tăng khoảng 2,5%. Trong khi kinh tế tăng cao, USD lại có xu hướng mất giá mạnh so với những đồng tiền chủ chốt khác, dẫn đến một số bình luận khác nhau về tình hình kinh tế Mỹ hiện nay.
kinh te my tang vung du dong usd suy yeu
Ảnh minh họa.

Ông Doug Holtz-Eakin, người đứng đầu Diễn đàn Hành động Mỹ (AAC) và là cố vấn kinh tế cho nhiều thành viên Đảng Cộng hòa nhận định, kinh tế Mỹ vẫn vững chắc, nhưng không bùng nổ, và chưa có “cú hích nào mang tên Trump”. Nhiều người Mỹ đang có việc làm, nhưng chủ yếu là tại những ngành và lĩnh vực thu nhập thấp, tốc độ tuyển dụng có vẻ chậm dần. Một vấn đề lớn đối với Tổng thống Donald Trump là chương trình nghị sự kinh tế của ông đã bị đình trệ trong Quốc hội. Các chuyên gia kinh tế và lãnh đạo doanh nghiệp hoan nghênh vì họ cho rằng cắt giảm thuế đang đến, cùng với việc chi tiêu cho cơ sở hạ tầng và môi trường pháp lý dễ dàng hơn. Tuy nhiên, tâm trạng lạc quan đó đang bắt đầu mờ nhạt dần, vì khả năng Tổng thống Donald Trump đạt được chương trình nghị sự của mình ngày càng không chắc chắn.

Ông Doug Holtz-Eakin nhấn mạnh, rất ít người dự đoán một cuộc suy thoái đến sớm, nhưng kỳ vọng vào một cú hích kinh tế cũng đang mờ dần. Nước Mỹ đang phải đối mặt với những thách thức chính trị trầm trọng bởi một chính quyền luôn thay đổi quan điểm, phân cực và nhiều bất đồng. Tuy nhiên, nền kinh tế Mỹ đang có nền tảng vững chắc. Nếu các nhà hoạch định chính sách Mỹ thực sự muốn củng cố và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, họ có nhiều cơ hội và điều kiện để làm điều đó, mang đến lợi ích không chỉ cho thị trường chứng khoán mà cho cả người Mỹ.

Trong khi đó, theo nhận định của Giáo sư danh dự Koichi Hamada đến từ Trường Đại học Yale và là cố vấn đặc biệt của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, ngay từ đầu, chính quyền của Tổng thống Donald Trump đã duy trì quan điểm ủng hộ doanh nghiệp, với cam kết sẽ cắt giảm quy định mang đến những hy vọng cho các nhà đầu tư về khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Mỹ và kinh tế toàn cầu. Trong đó, quyết tâm của chính quyền Donald Trump nhằm giải thoát thị trường tài chính tự do khỏi những quy định thái quá cuối cùng có thể sẽ mang lại lợi ích cho nền kinh tế toàn cầu.

Một lý do khác dẫn đến triển vọng lạc quan về nền kinh tế của Mỹ và thế giới bắt nguồn từ kế hoạch 1.000 tỷ USD của Tổng thống Donald Trump nhằm xây dựng lại cơ sở hạ tầng tại Mỹ. Thật không may, sự mập mờ của Tổng thống Donald Trump về cuộc xung đột sắc tộc ở Charlottesville (bang Virginia) đã khiến ông đánh mất những thiện chí cuối cùng của Quốc hội Mỹ. Với việc hai hội đồng tư vấn kinh doanh đã bị giải thể sau sự cố Charlottesville, kế hoạch cho một hội đồng tư vấn cơ sở hạ tầng giờ đây cũng đã bị hủy bỏ.

Tuy nhiên, những hỗn loạn chính trị chưa thể trở thành mối đe dọa tiềm ẩn đối với thành công kinh tế, do Tổng thống Donald Trump và các cố vấn kinh tế dường như tin rằng chỉ có cân bằng thương mại song phương mới được coi là công bằng và đó là mục tiêu quan trọng nhất. Trên thực tế, một sự cân bằng như vậy là rất khó đạt được trong một hệ thống thương mại mở và nỗ lực theo đuổi mục tiêu này sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực vì sẽ làm suy yếu những lợi ích thương mại tổng thể. Về cơ bản, sự cân bằng đó là ngẫu nhiên và không thể trông đợi điều này sẽ tiếp tục tồn tại trong môi trường kinh tế liên tục thay đổi.

Thông tin do Reuters trích dẫn báo cáo của Tạp chí Đức cho biết, Ủy ban Kinh tế và Tài chính thuộc Liên minh châu Âu (EU) phê phán chính sách kinh tế của Tổng thống Donald Trump và bày tỏ lo ngại, những nỗ lực tăng cường bảo hộ sẽ đe dọa kinh tế toàn cầu. Các kế hoạch cắt giảm thuế đối với tầng lớp trung lưu có thể làm tăng thêm những thách thức mà nền kinh tế Mỹ phải đối mặt, hơn là giảm nhẹ khó khăn cho nền kinh tế Mỹ, nhất là trong bối cảnh nợ công tại Mỹ có xu hướng tăng dần và đang diễn biến không bền vững.

Do Tổng thống Donald Trump chưa tập trung vào các vấn đề kinh tế, nên tăng kinh tế cao trong thời gian qua chủ yếu bắt nguồn từ đà phục hồi kinh tế trong những năm qua. Tuy nhiên, những kỳ vọng lạc quan của thị trường vào cam kết của Tổng thống Donald Trump khi tranh cử tổng thống là sẽ “đưa nước Mỹ vĩ đại trở lại” đang phai nhạt dần, điều này khiến USD mất giá ngày càng rõ rệt, kể cả sau những đợt tăng lãi suất chính sách trong thời gian qua.

Theo đánh giá của chuyên gia chiến lược George Saravelos đến từ Ngân hàng Trung ương Đức (Deutche Bank), từ đầu năm đến nay, USD đã mất giá khoảng 11% so với giỏ tiền tệ chủ chốt. Nguyên nhân dẫn đến sự mất giá của USD là do một số thay đổi cơ bản đã ảnh hưởng tiêu cực đến đồng bạc xanh.

Thứ nhất, thị trường vẫn chưa đánh giá đúng mức những đợt tăng lãi suất của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed), được ông George Saravelos cho là đang mất dần tác dụng. Ông cũng không kỳ vọng về khả năng Fed sẽ tăng lãi suất thêm một đợt nữa trong năm 2017, mà may ra sẽ tiến hành một đợt tăng lãi suất vào năm sau, có thể vào tháng 9/2018. Trong khi đó, nhân sự tại Ủy ban Thị trường mở liên bang (FOMC) sẽ có một số điều chỉnh từ đầu năm 2018 với nhiều thành viên mới, nên rất khó dự báo những động thái chính sách của Fed trong thời gian tới.

Thứ hai, nền tảng dẫn dắt thị trường ngoại hối quốc tế đã có sự chuyển dịch cơ bản. Thị trường ngoại hối thường được dẫn dắt bởi các kỳ vọng về chính sách tiền tệ, nhưng ngày nay dường như được điều chỉnh theo những thay đổi trong bảng cân đối tài sản, vốn đã tích lũy ở mức cao do nhiều nước mở rộng tiền tệ không có tiền lệ trong những năm qua, khi người Mỹ giảm dần mức độ phân bổ nguồn vốn đầu tư tại phần còn lại trên thế giới. Trong những năm qua, người Mỹ hầu như đã giảm toàn bộ danh mục thu nhập tài sản cố định tại nước ngoài. Hiện nay, xu hướng tăng đầu tư ra nước ngoài có dấu hiệu tăng trở lại.

Thế Thảo

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 119,300 ▲1800K 121,300 ▲1800K
AVPL/SJC HCM 119,300 ▲1800K 121,300 ▲1800K
AVPL/SJC ĐN 119,300 ▲1800K 121,300 ▲1800K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,380 ▲150K 11,560 ▲150K
Nguyên liệu 999 - HN 11,370 ▲150K 11,550 ▲150K
Cập nhật: 29/04/2025 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.000 ▲1500K 117.000 ▲1500K
TPHCM - SJC 119.300 ▲1800K 121.300 ▲1800K
Hà Nội - PNJ 114.000 ▲1500K 117.000 ▲1500K
Hà Nội - SJC 119.300 ▲1800K 121.300 ▲1800K
Đà Nẵng - PNJ 114.000 ▲1500K 117.000 ▲1500K
Đà Nẵng - SJC 119.300 ▲1800K 121.300 ▲1800K
Miền Tây - PNJ 114.000 ▲1500K 117.000 ▲1500K
Miền Tây - SJC 119.300 ▲1800K 121.300 ▲1800K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.000 ▲1500K 117.000 ▲1500K
Giá vàng nữ trang - SJC 119.300 ▲1800K 121.300 ▲1800K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.000 ▲1500K
Giá vàng nữ trang - SJC 119.300 ▲1800K 121.300 ▲1800K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.000 ▲1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.000 ▲1500K 117.000 ▲1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.000 ▲1500K 117.000 ▲1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.000 ▲1500K 116.500 ▲1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.880 ▲1490K 116.380 ▲1490K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.170 ▲1490K 115.670 ▲1490K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.940 ▲1490K 115.440 ▲1490K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.030 ▲1130K 87.530 ▲1130K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.800 ▲870K 68.300 ▲870K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.110 ▲620K 48.610 ▲620K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.310 ▲1370K 106.810 ▲1370K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.720 ▲920K 71.220 ▲920K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.380 ▲980K 75.880 ▲980K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.870 ▲1020K 79.370 ▲1020K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.340 ▲560K 43.840 ▲560K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.100 ▲500K 38.600 ▲500K
Cập nhật: 29/04/2025 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,220 ▲50K 11,740 ▲50K
Trang sức 99.9 11,210 ▲50K 11,730 ▲50K
NL 99.99 11,220 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,220 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,450 ▲50K 11,750 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,450 ▲50K 11,750 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,450 ▲50K 11,750 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 11,930 ▲180K 12,130 ▲180K
Miếng SJC Nghệ An 11,930 ▲180K 12,130 ▲180K
Miếng SJC Hà Nội 11,930 ▲180K 12,130 ▲180K
Cập nhật: 29/04/2025 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16147 16414 16989
CAD 18249 18525 19144
CHF 30848 31225 31876
CNY 0 3358 3600
EUR 28969 29238 30269
GBP 34033 34423 35366
HKD 0 3221 3424
JPY 175 179 185
KRW 0 0 19
NZD 0 15183 15773
SGD 19321 19601 20131
THB 694 757 810
USD (1,2) 25744 0 0
USD (5,10,20) 25783 0 0
USD (50,100) 25811 25845 26190
Cập nhật: 29/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,800 25,800 26,160
USD(1-2-5) 24,768 - -
USD(10-20) 24,768 - -
GBP 34,390 34,483 35,413
HKD 3,289 3,299 3,399
CHF 31,095 31,191 32,064
JPY 178.74 179.06 187.04
THB 742.99 752.17 804.51
AUD 16,458 16,518 16,970
CAD 18,515 18,574 19,078
SGD 19,526 19,587 20,206
SEK - 2,661 2,753
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,899 4,034
NOK - 2,465 2,551
CNY - 3,535 3,631
RUB - - -
NZD 15,167 15,308 15,752
KRW 16.79 17.5 18.8
EUR 29,152 29,175 30,417
TWD 727.19 - 880.35
MYR 5,616.82 - 6,337.58
SAR - 6,809.34 7,167.29
KWD - 82,536 87,774
XAU - - -
Cập nhật: 29/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,810 25,820 26,160
EUR 29,049 29,166 30,278
GBP 34,271 34,409 35,385
HKD 3,284 3,297 3,404
CHF 31,057 31,182 32,088
JPY 178.38 179.10 186.56
AUD 16,381 16,447 16,978
SGD 19,500 19,578 20,111
THB 759 762 795
CAD 18,457 18,531 19,048
NZD 15,245 15,755
KRW 17.26 19.01
Cập nhật: 29/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25900 25900 26200
AUD 16213 16313 16981
CAD 18322 18422 19077
CHF 31082 31112 31998
CNY 0 3539.5 0
CZK 0 1140 0
DKK 0 3965 0
EUR 29140 29240 30113
GBP 34323 34373 35483
HKD 0 3358 0
JPY 176.15 177.15 186.18
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6161 0
NOK 0 2507 0
NZD 0 15285 0
PHP 0 434 0
SEK 0 2711 0
SGD 19470 19600 20333
THB 0 723.1 0
TWD 0 796 0
XAU 11900000 11900000 12130000
XBJ 10500000 10500000 12130000
Cập nhật: 29/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,820 25,870 26,203
USD20 25,820 25,870 26,203
USD1 25,820 25,870 26,203
AUD 16,367 16,517 17,588
EUR 29,308 29,458 30,633
CAD 18,380 18,480 19,796
SGD 19,550 19,700 20,178
JPY 179.17 180.67 185.32
GBP 34,437 34,587 35,385
XAU 11,928,000 0 12,132,000
CNY 0 3,425 0
THB 0 759 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 29/04/2025 21:00