IMF hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu, cảnh báo "điều tồi tệ nhất chưa đến"

07:22 | 12/10/2022

548 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vừa dự báo tăng trưởng toàn cầu năm tới sẽ chậm lại ở mức 2,7% và dự đoán năm 2023, hàng triệu người trên thế giới sẽ cảm nhận suy thoái.

Trong báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới vừa công bố, IMF cho biết ngoài cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và đỉnh điểm của dịch Covid-19 thì đây là giai đoạn tăng trưởng suy yếu nhất kể từ năm 2001.

IMF ước tính GDP năm nay sẽ ở mức 3,2%, giảm so với dự báo 6% hồi năm 2021.

"Điều tồi tệ nhất vẫn chưa đến và nhiều người sẽ cảm nhận suy thoái trong năm 2023", báo cáo của IMF cho biết. Điều này cũng trùng với những cảnh báo trước đó của Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế giới và nhiều CEO trên toàn cầu.

Hơn 1/3 kinh tế toàn cầu sẽ chứng kiến tăng trưởng âm hai quý liên tiếp, trong khi đó 3 nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ, EU và Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng chậm lại.

IMF hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu, cảnh báo điều tồi tệ nhất chưa đến - 1
IMF cảnh báo điều tồi tệ nhất vẫn chưa đến và nhiều người sẽ cảm nhận suy thoái trong năm 2023. (Ảnh: Reuters).

Những tác nhân gây bất ổn

IMF cho rằng 3 sự kiện lớn đang kéo lùi tăng trưởng toàn cầu là cuộc chiến ở Ukraine, cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt và kinh tế Trung Quốc chậm lại. Các sự kiện này đang cùng nhau tạo ra thời kỳ "biến động" về kinh tế, địa chính trị và sinh thái.

Trong đó, cuộc chiến ở Ukraine tiếp tục "gây bất ổn mạnh mẽ đến nền kinh tế toàn cầu". Những tác động của nó đã gây ra cho cuộc khủng hoảng năng lượng nghiêm trọng ở châu Âu và tàn phá đất nước Ukraine.

Giá khí đốt tự nhiên đã tăng hơn gấp 4 lần kể từ năm 2021 khi Nga giảm nguồn cung cho châu Âu xuống chỉ còn chưa đầy 20% so với mức năm 2021. Giá thực phẩm cũng tăng vọt do cuộc xung đột.

IMF dự đoán lạm phát toàn cầu sẽ đạt đỉnh vào cuối năm 2022, tăng từ mức 4,7% năm 2021 lên 8,8% và sẽ tiếp tục neo cao trong một thời gian dài, lâu hơn so với dự đoán trước đó. Theo IMF, đến năm 2023, lạm phát toàn cầu sẽ giảm xuống còn 6,5% và xuống 4,1% vào năm 2024.

Cơ quan này cũng lưu ý đến việc các chính phủ trên toàn thế giới sẽ sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt để chống lạm phát và đồng USD sẽ tiếp tục mạnh lên so với các loại tiền tệ khác.

Chính sách zero-Covid của Trung Quốc với các đợt phong tỏa cũng sẽ tiếp tục cản trở nền kinh tế nước này.

Đối với các nền kinh tế đang phát triển và các thị trường mới nổi, cú sốc năm 2022 sẽ "khơi lại vết thương kinh tế vốn đã được chữa lành một phần sau đại dịch", báo cáo cho biết.

Phát biểu tại Hội nghị thường niên năm 2022 của IMF và Ngân hàng Thế giới (WB), ông Axel Van Trotsenburg - Giám đốc điều hành của WB - cho rằng: "Chúng tôi nhận thấy tình trạng nghèo cùng cực lại gia tăng. Số lượng người sống ở mức 7 USD, chiếm 47% dân số thế giới, đang sống trong nghèo đói. Điều đó cho thấy rất rõ ràng rằng, mọi người đang bị tổn thương".

Kinh tế thế giới mong manh

IMF cũng nhấn mạnh rằng những rủi ro do điều chỉnh sai chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và chính sách tài chính đang tăng nhanh, trong khi nền kinh tế thế giới mong manh và các thị trường tài chính có dấu hiệu căng thẳng.

Báo cáo của IMF được công bố khi các nhà phân tích vẫn đang tranh luận liệu hành động mạnh tay của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có đủ ngăn chặn lạm phát đang cao nhất trong 40 năm ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương châu Âu đã đưa lãi suất dương trở lại, lần đầu kể từ năm 2014 và Ngân hàng Trung ương Anh trong tuần này đã phải công bố các biện pháp bổ sung để giữ ổn định nền kinh tế Anh và hãm đà tăng của lợi suất trái phiếu.

IMF cho rằng, việc thắt chặt tiền tệ tích cực và mạnh mẽ là cần thiết, nhưng điều đó cũng khiến một cuộc suy thoái lớn là không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, "chính sách tài khóa không nên đi ngược với những nỗ lực hạ nhiệt lạm phát của cơ quan quản lý tiền tệ". Trước đó, sau khi Thủ tướng Anh Liz Truss đưa ra một loạt biện pháp cắt giảm thuế, IMF cũng cho rằng bà Truss nên "đánh giá lại" gói tài khóa.

Năm 2023 sẽ tồi tệ hơn

Cuộc khủng hoảng năng lượng cũng sẽ đè nặng lên các nền kinh tế trên thế giới, đặc biệt là châu Âu, và đó "không phải là cú sốc nhất thời".

"Mùa đông năm 2022 sẽ là thách thức đối với châu Âu, nhưng mùa đông 2023 sẽ còn tồi tệ hơn", IMF nói và cho rằng cuộc tái sắp xếp nguồn cung năng lượng sau cuộc chiến ở Ukraine vẫn đang tiếp tục được mở rộng.

Cách xử lý cuộc khủng hoảng năng lượng của châu Âu cũng đang vấp phải những phản ứng trái chiều. Thượng nghị sĩ Mỹ Chris Murphy đã chỉ trích châu Âu quá coi trọng năng lượng của Nga và cho rằng châu Âu đã sai lầm khi gắn bó với Nga về năng lượng.

Nói với CNBC, CEO của JPMorgan Chase cho rằng cuộc khủng hoảng năng lượng là nằm trong dự đoán và Mỹ sẽ phải sản xuất nhiều dầu và khí đốt hơn.

"Mỹ cần phải đóng vai trò lãnh đạo thực sự. Mỹ là nhà sản xuất trụ cột chứ không phải Saudi Arabia. Đáng lẽ chúng ta phải làm điều đó ngay từ tháng 3", ông nói khi đề cập đến cuộc chiến Ukraine nổ ra vào ngày 24/2.

Thủ tướng Ba Lan Mateusz Morawiecki thì cho rằng các vấn đề năng lượng của châu Âu hiện nay như thiếu khí đốt, giá khí đốt và giá điện đắt đỏ trên khắp châu Âu là "hậu quả của một chính sách rất sai lầm và tai hại, mà dẫn đầu là Đức".

Theo Dân trí

Giá vàng hôm nay 12/10 tiếp đà giảmGiá vàng hôm nay 12/10 tiếp đà giảm
Nổ lớn ở hàng loạt thành phố của UkraineNổ lớn ở hàng loạt thành phố của Ukraine
Ukraine ngừng xuất khẩu điện sang châu ÂuUkraine ngừng xuất khẩu điện sang châu Âu
Thụy Điển sẽ không cho Nga tham gia điều tra sự cố Dòng chảy phương BắcThụy Điển sẽ không cho Nga tham gia điều tra sự cố Dòng chảy phương Bắc
Chính sách tiền tệ góp phần hiệu quả kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tếChính sách tiền tệ góp phần hiệu quả kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế
IMF hạ dự báo tăng trưởng của Eurozone do xung đột Nga - UkraineIMF hạ dự báo tăng trưởng của Eurozone do xung đột Nga - Ukraine

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 115,400 117,700
AVPL/SJC HCM 115,400 117,700
AVPL/SJC ĐN 115,400 117,700
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 06/06/2025 14:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
TPHCM - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Hà Nội - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Hà Nội - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Đà Nẵng - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Đà Nẵng - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Miền Tây - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Miền Tây - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.300 ▲300K 113.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.190 ▲300K 113.690 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.490 ▲300K 112.990 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.260 ▲290K 112.760 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.000 ▲220K 85.500 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.220 ▲170K 66.720 ▲170K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.990 ▲120K 47.490 ▲120K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.840 ▲270K 104.340 ▲270K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.070 ▲180K 69.570 ▲180K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.620 ▲190K 74.120 ▲190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.030 ▲200K 77.530 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.330 ▲120K 42.830 ▲120K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.200 ▲90K 37.700 ▲90K
Cập nhật: 06/06/2025 14:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,010 11,440
Trang sức 99.9 11,000 11,430
NL 99.99 10,760
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,760
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,220 11,500
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,220 11,500
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,220 11,500
Miếng SJC Thái Bình 11,600 ▲60K 11,800 ▲30K
Miếng SJC Nghệ An 11,600 ▲60K 11,800 ▲30K
Miếng SJC Hà Nội 11,600 ▲60K 11,800 ▲30K
Cập nhật: 06/06/2025 14:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16406 16674 17253
CAD 18534 18811 19431
CHF 31104 31482 32117
CNY 0 3530 3670
EUR 29146 29416 30445
GBP 34495 34887 35824
HKD 0 3190 3393
JPY 174 178 184
KRW 0 18 19
NZD 0 15433 16022
SGD 19723 20004 20522
THB 713 777 831
USD (1,2) 25796 0 0
USD (5,10,20) 25836 0 0
USD (50,100) 25864 25898 26240
Cập nhật: 06/06/2025 14:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,842 34,937 35,867
HKD 3,262 3,272 3,371
CHF 31,242 31,339 32,210
JPY 177.2 177.52 185.46
THB 761.53 770.94 825.07
AUD 16,692 16,753 17,208
CAD 18,808 18,869 19,378
SGD 19,916 19,978 20,610
SEK - 2,671 2,765
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,926 4,062
NOK - 2,540 2,629
CNY - 3,590 3,687
RUB - - -
NZD 15,393 15,536 15,992
KRW 17.83 - 19.97
EUR 29,331 29,354 30,605
TWD 786.63 - 952.32
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,650 87,991
XAU - - -
Cập nhật: 06/06/2025 14:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 06/06/2025 14:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25879 25879 26240
AUD 16583 16683 17251
CAD 18718 18818 19374
CHF 31372 31402 32275
CNY 0 3593.4 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29459 29559 30337
GBP 34859 34909 36025
HKD 0 3270 0
JPY 177.79 178.79 185.33
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15529 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19885 20015 20746
THB 0 743.6 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10800000 10800000 11750000
Cập nhật: 06/06/2025 14:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,890 25,940 26,200
USD20 25,890 25,940 26,200
USD1 25,890 25,940 26,200
AUD 16,636 16,786 17,855
EUR 29,518 29,668 30,846
CAD 18,671 18,771 20,091
SGD 19,974 20,124 20,600
JPY 178.26 179.76 184.45
GBP 34,966 35,116 35,914
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,478 0
THB 0 779 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 06/06/2025 14:45