Hoá giải nan đề hạ lãi suất cho nền kinh tế phục hồi

07:59 | 15/06/2023

52 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Chúng ta có nhu cầu cấp thiết là giảm lãi suất và cũng có điều kiện để giảm lãi suất. Nhưng cần phải có sự phối hợp từ các cơ quan, Chính phủ để việc này có lợi cho tất cả mọi người.

Thiết lập cân bằng mới

Ngay từ quý 1/2023, dấu hiệu khó khăn của nền kinh tế đã bắt đầu bộc lộ nhưng đến tháng 4, tình hình không những không cải thiện mà còn xấu đi. Chỉ số đầu tiên chúng ta thấy đó là PMI từ tháng 3 tháng 4 đã tụt xuống rất sâu dưới 50 điểm.

Môi trường lãi suất cao như từ đầu năm đến nay không chỉ làm xói mòn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, mà còn gây ra nguy cơ với chính hệ thống ngân hàng
Môi trường lãi suất cao như từ đầu năm đến nay không chỉ làm xói mòn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, mà còn gây ra nguy cơ với chính hệ thống ngân hàng

Trong nước, sự khó khăn thể hiện ở các mặt như nhu cầu về đầu tư tiêu dùng được biểu hiện lớn ở nhu cầu tín dụng, với 4 tháng đầu năm tăng trưởng tín dụng chỉ 3,04%, nghĩa là chưa bằng một nửa cùng kỳ năm ngoái (khoảng 7,24%). Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có thâm dụng lao động lớn cũng đã có sự sa thải người lao động lên đến hơn 10%.

Vậy đây sẽ chỉ là một cú sốc với nền kinh tế rồi sau đó quay trở lại trạng thái bình thường, hay là một cú sốc để tạo ra cân bằng mới và cân bằng ở mức thấp hơn so với kỳ vọng của chúng ta?

Nếu so sánh với giai đoạn năm 2009 - 2011 sẽ thấy, trong nội tại nền kinh tế khi đó có một điểm là hệ thống tổ chức tín dụng bị yếu và có nguy cơ đổ vỡ, nên chúng ta phải tập trung xử lý ảnh hưởng đến kinh tế trong nước. Tuy nhiên, may mắn lúc đó là xuất khẩu và đầu tư nước ngoài vẫn tăng trưởng tốt, đặc biệt giải ngân đầu tư nước ngoài. Điều này tạo ra trụ đỡ để cơ cấu lại nền kinh tế, nhưng lần này, chúng ta không chỉ gặp khó khăn trong nước với vấn đề trên thị trường vốn có các trục trặc chưa giải quyết được, hay thị trường bất động sản suy yếu và ở bên ngoài, dòng vốn FDI cam kết vào Việt Nam đến nay giảm đâu đó khoảng 17%.

Tương tự, xuất khẩu trong 4 tháng đầu năm cũng giảm 13% và nhập khẩu giảm 17,7%, các doanh nghiệp FDI nhập khẩu cũng giảm 18,3% trong khi họ chủ yếu nhập khẩu để phục vụ sản xuất.

Tất cả những điều này đều cho thấy trong giai đoạn tới, nền kinh tế sẽ rất khó khăn, sự xấu đi ở bên ngoài không phải là một cú sốc ngắn hạn, mà có thể sẽ thiết lập một cân bằng thấp trong giai đoạn tương đối dài. Bởi vì nó liên quan đến những xung đột về địa chính trị trên toàn cầu, xung đột giữa các nước lớn và đang có sự thay đổi về trật tự kinh tế thế giới.

Vì vậy, sẽ có những điểm mới cần được đánh giá kỹ lưỡng so với những gì chúng ta đã biết và không nên coi đây chỉ là một cú sốc tạm thời rồi sẽ tăng trưởng nhanh trở lại từ 6,5 - 7%.

Cần chính sách phản chu kỳ

Hiện nay, Việt Nam đang đối mặt với hai nan đề khó đó là: Thứ nhất, cầu tín dụng đang thấp nhưng lãi suất neo ở mức cao và có nhiều nguyên nhân mà rất khó để trách bất kỳ ai, vì còn liên quan đến rủi ro nền kinh tế hay lo lắng về lạm phát.

TS. Nguyễn Tú Anh
TS. Nguyễn Tú Anh

Tuy nhiên, nền kinh tế đang có dấu hiệu đi vào vùng suy yếu thì cần những chính sách phản chu kỳ. Nghĩa là khi nền kinh tế suy yếu, nếu thuận chu kỳ thì rủi ro tăng lên và các tổ chức tín dụng sẽ tìm cách siết chặt cho vay, đồng thời tăng chi phí vay để đảm bảo bù đắp cho rủi ro mà họ có thể phải gánh chịu. Chính điều đó làm cho khó khăn của doanh nghiệp càng tăng cao và nợ xấu sẽ xây lên trong hệ thống, sau đó tác động ngược lại phía ngân hàng.

Môi trường lãi suất cao như từ đầu năm đến nay không chỉ làm xói mòn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, mà còn gây ra nguy cơ với chính hệ thống ngân hàng. Vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã có những chính sách rất kịp thời như liên tục giảm lãi suất điều hành và đó là chính sách phản chu kỳ khi các nước khác đang tăng lãi suất.

Mặt khác, chúng ta phải nới được dư địa để hạ lãi suất, giúp doanh nghiệp giảm áp lực về chi phí vốn, đồng thời có thêm cơ hội vượt qua khó khăn, từ đó ngân hàng cũng giảm được rủi ro nợ xấu.

Tôi đã từng ước tính dư nợ tín dụng bình quân trong năm 2022 khoảng 11.350.000 tỷ đồng. Với mức lãi suất trung bình khoảng 10% thì chi phí cho lãi suất trong một năm là khoảng 1.130.000 tỷ đồng, tương đương 12% GDP. Trong điều kiện như vậy, bằng nỗ lực của tất cả các bên không chỉ ngành ngân hàng, trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước, mà chúng ta giảm được lãi suất xuống 1 điểm phần trăm, thì sự hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và người dân lên đến 113.000 tỷ đồng.

Thứ hai, Việt Nam có dư địa giảm lãi suất hay không? Nhiều người nói áp lực lạm phát vẫn cao và điều này chỉ đúng ở Mỹ và châu Âu, còn đối với Việt Nam thì không. Cụ thể, trong 3 tháng đầu năm 2023, tổng cung tiền của Việt Nam tăng chỉ khoảng 0,8%, trong khi tác dụng lên lạm phát là cung tiền chứ không phải tín dụng, do đó hoàn toàn không có áp lực nào lên lạm phát lõi ở thời điểm hiện tại.

Cùng với đó, xu hướng giảm giá hàng hoá cơ bản rất rõ, như giá năng lượng, giá than, giá xăng dầu, giá hàng nông sản trên cả thế giới đều có xu hướng giảm. Vì vậy thời điểm này nếu đặt vấn đề về lạm phát thì không nên lo lắng, còn đến năm 2024 có thể sẽ khác.

Một yếu tố nữa là để giảm được lãi suất, chúng ta phải tạo thanh khoản cho nền kinh tế đủ lớn. Vừa qua có những tín hiệu rất tích cực như trong 4 tháng đầu năm, Ngân hàng Nhà nước đã mua lượng lớn ngoại tệ giúp tăng dự trữ ngoại hối, vô hình chung giúp cải thiện cung tiền cho nền kinh tế và làm tăng thanh khoản hệ thống. Điều đó được nhìn thấy rất rõ khi lãi suất liên ngân hàng đã liên tục giảm.

Trong thời gian tới, Chính phủ phải thúc đẩy giải ngân đầu tư công mạnh mẽ, giúp tiền ra nền kinh tế và tăng tiền nhàn rỗi cho hệ thống, khiến chi phí đầu vào hệ thống ngân hàng giảm sẽ tạo thêm điều kiện giảm lãi suất.

Có thể thấy, chúng ta có nhu cầu cấp thiết là giảm lãi suất và cũng có điều kiện để giảm lãi suất. Nhưng để biến điều này thành hiện thực thì cần phải có sự phối hợp từ các cơ quan, Chính phủ để việc này có lợi cho tất cả mọi người. Vì lãi suất cao không chỉ doanh nghiệp thiệt hại, mà bản thân ngân hàng cũng không muốn điều này xảy ra.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Xây dựng kế hoạch phát triển KTXH và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024Xây dựng kế hoạch phát triển KTXH và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024
"Giấc mơ" vượt Mỹ của kinh tế Trung Quốc khi nào mới thành hiện thực?
[PetroTimesMedia] El Nino mối đe dọa nền kinh tế toàn cầu[PetroTimesMedia] El Nino mối đe dọa nền kinh tế toàn cầu

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,900 120,900
AVPL/SJC HCM 118,900 120,900
AVPL/SJC ĐN 118,900 120,900
Nguyên liệu 9999 - HN 10,830 11,250
Nguyên liệu 999 - HN 10,820 11,240
Cập nhật: 06/07/2025 15:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.800 117.400
TPHCM - SJC 118.900 120.900
Hà Nội - PNJ 114.800 117.400
Hà Nội - SJC 118.900 120.900
Đà Nẵng - PNJ 114.800 117.400
Đà Nẵng - SJC 118.900 120.900
Miền Tây - PNJ 114.800 117.400
Miền Tây - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.800
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.100 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.980 116.480
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.270 115.770
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.030 115.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.100 87.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.860 68.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.160 48.660
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.410 106.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.780 71.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.440 75.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.940 79.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.380 43.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.130 38.630
Cập nhật: 06/07/2025 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,270 11,710
Trang sức 99.9 11,260 11,700
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,470 11,770
Miếng SJC Thái Bình 11,890 12,090
Miếng SJC Nghệ An 11,890 12,090
Miếng SJC Hà Nội 11,890 12,090
Cập nhật: 06/07/2025 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16611 16880 17475
CAD 18701 18979 19604
CHF 32300 32683 33345
CNY 0 3570 3690
EUR 30185 30459 31504
GBP 34919 35312 36264
HKD 0 3202 3406
JPY 174 178 184
KRW 0 18 20
NZD 0 15550 16152
SGD 19985 20268 20809
THB 723 786 842
USD (1,2) 25902 0 0
USD (5,10,20) 25942 0 0
USD (50,100) 25971 26005 26360
Cập nhật: 06/07/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,990 25,990 26,350
USD(1-2-5) 24,950 - -
USD(10-20) 24,950 - -
GBP 35,342 35,438 36,328
HKD 3,275 3,285 3,384
CHF 32,596 32,697 33,515
JPY 177.99 178.31 185.87
THB 771.36 780.88 835.42
AUD 16,913 16,974 17,452
CAD 18,967 19,028 19,583
SGD 20,159 20,222 20,899
SEK - 2,691 2,784
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,062 4,202
NOK - 2,553 2,642
CNY - 3,605 3,702
RUB - - -
NZD 15,540 15,684 16,143
KRW 17.73 18.49 19.96
EUR 30,389 30,413 31,655
TWD 816.31 - 987.42
MYR 5,792.07 - 6,533.33
SAR - 6,861.31 7,221.27
KWD - 83,422 88,692
XAU - - -
Cập nhật: 06/07/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,010 26,010 26,350
EUR 30,234 30,355 31,484
GBP 35,175 35,316 36,313
HKD 3,270 3,283 3,388
CHF 32,425 32,555 33,488
JPY 177.34 178.05 185.45
AUD 16,872 16,940 17,483
SGD 20,199 20,280 20,834
THB 788 791 827
CAD 18,952 19,028 19,563
NZD 15,655 16,166
KRW 18.42 20.23
Cập nhật: 06/07/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26000 26000 26350
AUD 16806 16906 17479
CAD 18901 19001 19558
CHF 32579 32609 33495
CNY 0 3618.3 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30473 30573 31345
GBP 35227 35277 36388
HKD 0 3330 0
JPY 177.81 178.81 185.33
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15663 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20162 20292 21020
THB 0 753.3 0
TWD 0 900 0
XAU 11700000 11700000 12090000
XBJ 10800000 10800000 12090000
Cập nhật: 06/07/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,000 26,050 26,300
USD20 26,000 26,050 26,300
USD1 26,000 26,050 26,300
AUD 16,854 17,004 18,070
EUR 30,513 30,663 31,841
CAD 18,851 18,951 20,273
SGD 20,242 20,392 20,865
JPY 178.35 179.85 184.5
GBP 35,327 35,477 36,265
XAU 11,928,000 0 12,132,000
CNY 0 3,503 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 06/07/2025 15:00