Giá xăng dầu hôm nay (19/3): Dầu thô mất giá mạnh, Brent mất tới 12% giá trị

08:26 | 19/03/2023

5,575 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Lo ngại cuộc khủng hoảng ngân hàng lan rộng và áp lực lãi suất gia tăng sẽ sớm đẩy kinh tế toàn cầu vào suy thoái, khủng hoảng khiến giá dầu hôm nay khép tuần giao dịch với xu hướng giảm mạnh.
Giá xăng dầu hôm nay (19/3): Dầu thô mất giá mạnh, Brent mất tới 12% giá trị
Ảnh minh họa
Giá vàng hôm nay (19/3): Tâm lý bất ổn gia tăng, nhu cầu tài sản nhảy vọt, giá vàng phi mãGiá vàng hôm nay (19/3): Tâm lý bất ổn gia tăng, nhu cầu tài sản nhảy vọt, giá vàng phi mã

Giá dầu thế giới bước vào tuần giao dịch từ ngày 13/3 với xu hướng tăng nhẹ khi thị trường dần “tiêu hóa” hết những phát biểu diều hâu của Chủ tịch Fed Jerome Powell về việc tăng lãi suất cao hơn dự báo. Hầu hết các nhà đầu tư tin rằng Fed sẽ không đánh đổi tăng trưởng kinh tế trong nỗ lực hạ nhiệt lạm phát, chấp nhận rủi ro đưa nền kinh tế Mỹ đến nguy cơ suy thoái, thậm chí khủng hoảng tài chính.

Bên cạnh đó, những dữ liệu kinh tế tích cực từ nền kinh tế Mỹ và lo ngại tình trạng thiếu hụt nguồn cung cũng hỗ trợ giá dầu đi lên.

Ghi nhận vào đầu giờ sáng ngày 13/3/2023, theo giờ Việt Nam, trên sàn New York Mercantile Exchanghe, giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 5/2023 đứng ở mức 77,16 USD/thùng, tăng 0,38 USD trong phiên. Trong khi giá dầu Brent giao tháng 5/2023 đứng ở mức 83,23 USD/thùng, tăng 0,45 USD trong phiên.

Nhưng khi những lo ngại về một cuộc khủng hoảng ngân hàng lan rộng có thể đẩy kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, khủng hoảng, giá dầu đã quay đầu đi xuống.

Ghi nhận vào đầu giờ sáng ngày 15/3/2023, theo giờ Việt Nam, trên sàn New York Mercantile Exchanghe, giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 5/2023 đứng ở mức 71,93 USD/thùng; trong khi giá dầu Brent giao tháng 5/2023 đứng ở mức 77,76 USD/thùng.

Đà giảm của giá dầu chỉ tạm dừng lại vào cuối phiên giao dịch ngày 15/3 khi thị trường ghi nhận dữ liệu lạm phát tích cực từ Mỹ. Cụ thể, theo dữ liệu vừa được công bố, chỉ số giá tiêu dùng tháng 2/2023 của Mỹ tăng 6% so với cùng kỳ 2022, nhưng đã giảm so với mức 6,4% được ghi nhận trong tháng 1. Chỉ số CPI cốt lõi ghi nhận tăng 5,5%.

Dấu hiệu lạm phát hạ nhiệt sẽ khiến Fed thận trọng hơn với các quyết định tăng lãi suất. Nhiều nhà đầu tư tin rằng Fed sẽ chỉ thực hiện tăng 25 điểm phần trăm vào cuộc họp chính sách tháng 3 thay vì mức dự báo 50 điểm, và Fed cũng sẽ thực hiện một đợt tăng lãi suất tương tự như vậy vào tháng 5/2023.

Tâm lý lo ngại rủi ro, bất ổn, suy thoái kinh tế của nhà đầu tư được trấn an khi Mỹ đưa ra cam kết đảm bảo quyền lợi cho khách hàng tại Ngân hàng Thung lũng Silicon (SVB) và Ngân hàng Signature Bank.

Ngoài ra, giá dầu còn được thúc đẩy bởi dự báo nhu cầu toàn cầu tăng trong năm 2023 của OPEC, đặc biệt là nhu cầu từ Trung Quốc. Theo đó, OPEC dự báo nhu cầu dầu thế giới sẽ tăng 2,32 triệu thùng/ngày, tương đường 2,3% trong năm 2023.

Theo nhà phân tích Toshitaka Tazawa, động thái này của OPEC đã hỗ trợ tích cực cho thị trường dầu thô vốn đang chịu áp lực bởi lo ngại về một cuộc khủng hoảng tài chính sau sự sụp đổ của 2 ngân hàng ở Mỹ.

Giá dầu cũng được thúc đẩy bởi tuyên bố về việc sẽ không bán dầu cho các quốc gia áp giá trần cảu Ả Rập Xê-út.

Theo đó, trong bài trả lời phỏng vấn Energy Intelligence hôm15/3, Bộ trưởng Năng lượng Ả Rập Xê-út, Hoàng tử Abdulaziz bin Salman, cho biết việc áp trần giá dầu chắc chắn sẽ dẫn đến sự bất ổn của thị trường và Ả Rập Xê-út sẽ giảm sản lượng dầu.

Bộ trưởng Năng lượng Ả Rập Xê-út đồng thời cũng nhấn mạnh rằng OPEC+ đã thành công trong việc mang lại sự ổn định và minh bạch cho thị trường dầu mỏ toàn cầu.

Phát biểu này của Bộ trưởng Năng lượng Ả Rập Xê-út được xem là thông điệp về việc OPEC+ sẽ tiếp tục duy trì chính sách cắt giảm sản lượng hiện nay, bất chấp những dự báo tích cực về triển vọng tiêu thụ dầu toàn cầu.

Dù vậy, giá dầu thô vẫn đang chịu áp lực không nhỏ khi các ngân hàng trung ương, đặc biệt là Fed và ECB vẫn giữ kế hoạch tăng lãi suất nhằm hạ nhiệt lạm phát. Mới nhất, ECB đã quyết định tăng thêm 50 điểm phần trăm lãi suất sau khi lạm phát của khu vực được công bố đầu tháng này ở mức trên 8%.

Goldman Sachs vừa nâng xác suất rơi vào suy thoái của kinh tế Mỹ trong 12 tháng tới lên 35% khi các ngân hàng nhỏ chịu sức ép.

Trong phiên giao dịch cuối tuần, khi áp lực lãi suất leo cao cộng với lo ngại một cuộc khủng hoảng ngân hàng lan rộng tiếp tục đè nặng lên triển vọng tiêu thụ dầu toàn cầu, giá dầu thô đã quay đầu giảm mạnh.

Tại Mỹ, các chuyên gia phố Wall đã bắt đầu có những cảnh báo, tranh luận về việc nền kinh tế nước này liệu có rơi vào suy thoái trong vài tháng tới hay không sau sự sụp đổ của của 3 ngân hàng Silvergate, Silicon Valley Bank và Signature Bank.

Trong một báo cáo của JPMorgan (Mỹ) phát đi ngày 15/3, các chuyên gia của ngân hàng này đã nhận định tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng cỡ trung suy giảm có thể khiến GDP Mỹ giảm 0,5-1% trong 1 đến 2 năm tới.

Chốt tuần giao dịch, giá dầu hôm nay ghi nhận giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 5/2023 trên sàn New York Mercantile Exchanghe đứng ở mức 66,53 USD/thùng; trong khi giá dầu Brent giao tháng 5/2023 đứng ở mức 72,53 USD/thùng.

Như vậy, tính chung trong tuần giao dịch, giá dầu Brent đã mất tới 12% giá trị trong tuần giao dịch, mức giảm lớn nhất kể từ tháng 12/2022; còn dầu WTI đã giảm tới 13% kể từ mức chất phiên 10/3, và là mức giảm nhiều nhất kể từ tháng 4/2022.

Tại thị trường trong nước, giá xăng dầu hôm nay được niêm yết phổ biến trên thị trường như sau: Giá xăng E5 RON 92 không cao hơn 22.806 đồng/lít; giá xăng RON 95 không cao hơn 23.818 đồng/lít; giá dầu diesel 0.05S không cao hơn 20.502 đồng/lít; giá dầu hỏa không cao hơn 20.715 đồng/lít; giá dầu mazut 180CST 3.5S không cao hơn 15.279 đồng/kg.

Hà Lê

Tin tức kinh tế ngày 18/3: OECD nâng dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầuTin tức kinh tế ngày 18/3: OECD nâng dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu
Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 18/3/2023Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 18/3/2023
Vì sao xăng dầu nhập khẩu tăng đột biến?Vì sao xăng dầu nhập khẩu tăng đột biến?
Ả Rập Xê-út cung cấp toàn bộ khối lượng dầu thô cho châu Á vào tháng 4Ả Rập Xê-út cung cấp toàn bộ khối lượng dầu thô cho châu Á vào tháng 4
Ấn Độ không cam kết mua dầu của Nga dưới mức giá trần G7Ấn Độ không cam kết mua dầu của Nga dưới mức giá trần G7

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 75,450
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 75,350
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 27/04/2024 02:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 75.600
TPHCM - SJC 83.000 85.200
Hà Nội - PNJ 73.800 75.600
Hà Nội - SJC 83.000 85.200
Đà Nẵng - PNJ 73.800 75.600
Đà Nẵng - SJC 83.000 85.200
Miền Tây - PNJ 73.800 75.600
Miền Tây - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 74.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 56.030
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 43.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 31.140
Cập nhật: 27/04/2024 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 7,590
Trang sức 99.9 7,375 7,580
NL 99.99 7,380
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 7,620
Miếng SJC Thái Bình 8,320 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,320 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,320 8,520
Cập nhật: 27/04/2024 02:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 85,200
SJC 5c 83,000 85,220
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 85,230
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 75,500
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 75,600
Nữ Trang 99.99% 73,700 74,700
Nữ Trang 99% 71,960 73,960
Nữ Trang 68% 48,451 50,951
Nữ Trang 41.7% 28,803 31,303
Cập nhật: 27/04/2024 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 27/04/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,233 16,253 16,853
CAD 18,228 18,238 18,938
CHF 27,206 27,226 28,176
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,544 3,714
EUR #26,239 26,449 27,739
GBP 31,095 31,105 32,275
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 156.48 156.63 166.18
KRW 16.2 16.4 20.2
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,217 2,337
NZD 14,797 14,807 15,387
SEK - 2,241 2,376
SGD 18,043 18,053 18,853
THB 632.05 672.05 700.05
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 27/04/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 27/04/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 27/04/2024 02:00