Giá năng lượng năm 2023 có tiếp tục tăng?

07:46 | 01/05/2023

6,931 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Giá năng lượng thế giới năm 2023 được dự báo vẫn sẽ ở mức cao. Trong bối cảnh đó, Chính phủ các nước cần thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng năng lượng kéo dài từ năm 2022 sang năm 2023.
Giá năng lượng năm 2023 có tiếp tục tăng?
Ảnh minh họa

Giá năng lượng tiếp tục biến động

Cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu trong năm 2022 khiến phần lớn các khu vực trên thế giới phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nguồn cung trong khi giá dầu, khí đốt và điện tăng mạnh. Cuộc khủng hoảng này vẫn còn nhiều điều khó lường và được dự đoán sẽ chưa thể kết thúc trong năm 2023. Ông Fatih Birol - Giám đốc Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho biết: Dự báo tiêu thụ năng lượng toàn cầu sẽ tăng 1,3% trong năm 2023, nhỉnh hơn một chút so với ước tính tăng trưởng 0,9% của năm 2022. Trong khi đó, các lệnh trừng phạt của phương Tây với dầu, khí đốt của Nga sẽ khiến giá tăng cao hơn. Việc châu Âu tìm cách thay thế khí đốt của Nga đã khiến giá khí thiên nhiên hóa lỏng của Mỹ, Australia và Qatar tăng vọt.

Còn theo Báo cáo triển vọng năng lượng năm 2023, Công ty Phân tích năng lượng và hàng hoá S&P Global Commodity Insights (Mỹ) nhận định, mặc dù giá khí đốt tự nhiên, than đá và dầu thô dự kiến sẽ giảm, song thị trường năng lượng và khí đốt ở châu Âu có thể bị thắt chặt hơn vào năm 2023. Giá khí đốt tự nhiên dự kiến vẫn ở mức tương đối cao so với trung bình nhiều năm, nhiều khả năng các Chính phủ sẽ đặt trọng tâm vào cải cách cơ cấu thị trường điện của châu Âu để làm giảm ảnh hưởng giá khí đốt tới giá điện trong năm 2023. Những năm tới, nguồn cung năng lượng toàn cầu còn bấp bênh hơn, tình trạng thiếu hụt nhiên liệu ngắn hạn sẽ thường xuyên xảy ra. Bên cạnh đó, chi phí năng lượng cao có thể khiến các nước châu Âu phải thu hẹp sản xuất, đóng cửa nhà máy hoặc chuyển đổi mô hình sản xuất trong một số lĩnh vực.

Về cơ bản, 2023 sẽ không phải là một năm dễ dàng với thị trường năng lượng toàn cầu, khi sự biến động ngày càng tăng. Ngoài ra, tình trạng bất ổn trên thị trường năng lượng sẽ còn kéo dài do nhiều yếu tố như xung đột địa chính trị, sự nóng lên toàn cầu và biến động tỷ giá hối đoái.

Nỗ lực ứng phó từ các quốc gia

Để giảm bớt các tác động tiêu cực từ khủng hoảng năng lượng, chính phủ các nước đã can thiệp thông qua các biện pháp hỗ trợ trực tiếp hoặc hạn chế giá tiêu dùng. EU đã đưa ra kế hoạch loại bỏ phụ thuộc năng lượng vào Nga bằng cách nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo. Mỹ ban hành đạo luật giảm lạm phát có trị giá 430 tỷ USD, trong đó có các sáng kiến để phát triển hiệu quả năng lượng, thúc đẩy năng lượng tái tạo. Australia đã công bố 4 biện pháp để ứng phó tác động của tăng giá do áp lực năng lượng đối với các gia đình, doanh nghiệp nhỏ và nhà sản xuất.

Bên cạnh đó, để thoát khỏi phụ thuộc năng lượng của Nga, châu Âu đã và đang tiếp cận các nhà cung cấp khí đốt lớn từ Mỹ, Na Uy, Algeria, các nhà sản xuất khí tự nhiên hóa lỏng từ Trung Đông, châu Phi, đồng thời nỗ lực chuyển đổi năng lượng tái tạo bằng việc ký kết thỏa thuận với các nước Nam Kavkaz, thông qua kế hoạch hỗ trợ năng lượng tái tạo trị giá 28 tỷ Euro, hay mới nhất là thỏa thuận hợp tác giữa Đức và Na Uy. Thủ tướng Na Uy Jonas Gahr Stoere nhấn mạnh: "Về lâu dài, chúng ta phải giải quyết các nhu cầu năng lượng lớn hơn. Chúng tôi nhận ra rằng cuộc khủng hoảng này thực sự thúc đẩy nhu cầu chuyển đổi năng lượng bền vững, năng lượng tái tạo, ít phát thải và không phát thải tại châu Âu".

Các liên minh năng lượng toàn cầu thay đổi khiến châu Âu phải tìm đến các giải pháp năng lượng thay thế như năng lượng xanh hay chuyển giao các ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng như thép, phân bón sang các quốc gia khác. Các nước Đông Á sẽ giảm sự phụ thuộc vào khí tự nhiên hóa lỏng, vốn đắt đỏ, và chuyển sang sử dụng than rẻ hơn. Còn Mỹ dự kiến phát triển các nguồn năng lượng tái tạo và nhiên liệu hóa thạch trong nước để tự bảo vệ khỏi khủng hoảng và biến động giá cả…

Cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu là động lực để các nước triển khai nhiều dự án năng lượng tái tạo, với công suất năng lượng tái tạo trên toàn thế giới dự kiến tăng gần gấp đôi trong giai đoạn 2022-2027. Nguồn năng lượng từ gió và mặt trời được dự đoán sẽ chiếm 90% công suất năng lượng tái tạo trong 5 năm tới.

Mặc dù giá nhiên liệu tăng cao có thể đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo, nhưng một số chuyên gia lo ngại, cuộc khủng hoảng hiện nay lại có thể khiến một số quốc gia phụ thuộc vào nguồn năng lượng truyền thống nhiều hơn. Tờ The Economist nhận định, năm 2023, hầu hết các quốc gia sẽ phải phát triển cả năng lượng hóa thạch và năng lượng mới để giải quyết “cú sốc năng lượng”. Trong ngắn hạn, các nước sẽ chấp nhận đầu tư vào khai thác nhiên liệu truyền thống để đảm bảo sự ổn định năng lượng. Về lâu dài, các quốc gia sẽ áp dụng chính sách công nghiệp do nhà nước dẫn dắt nhằm nỗ lực đẩy nhanh quá trình xây dựng các dự án năng lượng tái tạo.

Hải Anh

EVN gồng mình gánh giá điệnEVN gồng mình gánh giá điện
Không nên kéo dài việc giữ giá điệnKhông nên kéo dài việc giữ giá điện
EVN không đảm bảo cân bằng tài chínhEVN không đảm bảo cân bằng tài chính
Vì sao EVN có khoản lỗ hơn 26.000 tỷ đồng trong năm 2022?Vì sao EVN có khoản lỗ hơn 26.000 tỷ đồng trong năm 2022?
Nikkei Asia: Giá điện ổn định giúp xe điện trở thành lựa chọn tối ưu hơn so với taxi chạy xăngNikkei Asia: Giá điện ổn định giúp xe điện trở thành lựa chọn tối ưu hơn so với taxi chạy xăng
EVN đã thể hiện xuất sắc vai trò, trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước khi chịu lỗ lớn để các đảo xa có điện ổn định với giá điện thấpEVN đã thể hiện xuất sắc vai trò, trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước khi chịu lỗ lớn để các đảo xa có điện ổn định với giá điện thấp
Vương quốc Anh: Giá điện đã tăng hơn 66%Vương quốc Anh: Giá điện đã tăng hơn 66%

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC HCM 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC ĐN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Nguyên liệu 9999 - HN 68,850 ▲450K 69,450 ▲550K
Nguyên liệu 999 - HN 68,750 ▲450K 69,350 ▲550K
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Cập nhật: 28/03/2024 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
TPHCM - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Hà Nội - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Hà Nội - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Đà Nẵng - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Đà Nẵng - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Miền Tây - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Miền Tây - SJC 79.000 ▲200K 81.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 68.400 ▲300K 69.200 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 50.650 ▲220K 52.050 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.230 ▲170K 40.630 ▲170K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.540 ▲130K 28.940 ▲130K
Cập nhật: 28/03/2024 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,835 ▲30K 6,990 ▲30K
Trang sức 99.9 6,825 ▲30K 6,980 ▲30K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NL 99.99 6,830 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,830 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Nghệ An 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Hà Nội 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Cập nhật: 28/03/2024 23:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 ▲100K 81,000 ▲100K
SJC 5c 79,000 ▲100K 81,020 ▲100K
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 ▲100K 81,030 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 68,500 ▲250K 69,750 ▲300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 68,500 ▲250K 69,850 ▲300K
Nữ Trang 99.99% 68,400 ▲250K 69,250 ▲300K
Nữ Trang 99% 67,064 ▲297K 68,564 ▲297K
Nữ Trang 68% 45,245 ▲204K 47,245 ▲204K
Nữ Trang 41.7% 27,030 ▲125K 29,030 ▲125K
Cập nhật: 28/03/2024 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,660.26 15,818.45 16,326.56
CAD 17,743.11 17,922.33 18,498.03
CHF 26,676.40 26,945.86 27,811.41
CNY 3,357.08 3,390.99 3,500.45
DKK - 3,515.18 3,649.93
EUR 26,018.34 26,281.16 27,446.04
GBP 30,390.95 30,697.93 31,684.00
HKD 3,086.91 3,118.09 3,218.25
INR - 296.34 308.20
JPY 158.69 160.29 167.96
KRW 15.84 17.60 19.20
KWD - 80,359.61 83,575.55
MYR - 5,182.84 5,296.09
NOK - 2,236.99 2,332.06
RUB - 255.43 282.77
SAR - 6,588.96 6,852.65
SEK - 2,268.45 2,364.86
SGD 17,871.79 18,052.31 18,632.18
THB 599.73 666.36 691.91
USD 24,580.00 24,610.00 24,950.00
Cập nhật: 28/03/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,849 15,869 16,469
CAD 17,994 18,004 18,704
CHF 26,983 27,003 27,953
CNY - 3,362 3,502
DKK - 3,502 3,672
EUR #25,932 26,142 27,432
GBP 30,784 30,794 31,964
HKD 3,040 3,050 3,245
JPY 159.84 159.99 169.54
KRW 16.18 16.38 20.18
LAK - 0.68 1.38
NOK - 2,212 2,332
NZD 14,576 14,586 15,166
SEK - 2,250 2,385
SGD 17,820 17,830 18,630
THB 627.06 667.06 695.06
USD #24,555 24,595 25,015
Cập nhật: 28/03/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,610.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,298.00 26,404.00 27,570.00
GBP 30,644.00 30,829.00 31,779.00
HKD 3,107.00 3,119.00 3,221.00
CHF 26,852.00 26,960.00 27,797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15,877.00 15,941.00 16,428.00
SGD 18,049.00 18,121.00 18,658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,916.00 17,988.00 18,519.00
NZD 14,606.00 15,095.00
KRW 17.59 19.18
Cập nhật: 28/03/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24593 24643 24983
AUD 15883 15933 16343
CAD 18015 18065 18469
CHF 27159 27209 27624
CNY 0 3394.2 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26474 26524 27027
GBP 31019 31069 31522
HKD 0 3115 0
JPY 161.65 162.15 166.68
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0264 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14574 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18196 18196 18548
THB 0 638.7 0
TWD 0 777 0
XAU 7930000 7930000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 28/03/2024 23:00