Giá dầu thô có tuần mất giá mạnh, Brent tụt về mức 82,73 USD/thùng

09:06 | 12/03/2023

8,200 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Bất chấp có phiên giao dịch cuối tuần phi mã, giá dầu hôm nay vẫn ghi nhận tuần giao dịch mất giá mạnh của dầu thô khi thị trường xuất hiện nhiều lo ngại về tăng trưởng, bất ổn kinh tế ảnh hưởng đến triển vọng tiêu thụ dầu toàn cầu.
Giá dầu thô có tuần mất giá mạnh, Brent tụt về mức 82,73 USD/thùng
Ảnh minh họa
Giá vàng hôm nay (12/3): Tâm lý ổn định, lực đẩy xuất hiện, giá vàng trên đà phi mãGiá vàng hôm nay (12/3): Tâm lý ổn định, lực đẩy xuất hiện, giá vàng trên đà phi mã

Sau tuần tăng giá ấn tượng, giá dầu thô bước vào tuần giao dịch từ ngày 6/3 với xu hướng giảm nhẹ khi giới đầu tư đánh giá lại triển vọng tiêu thụ dầu toàn cầu trong bối cảnh các ngân hàng trung ương lớn được dự báo sẽ thực hiện một đợt tăng lãi suất mới vào cuộc họp chính sách diễn ra trong tháng 3 này.

Lo ngại tình trạng bất ổn địa chính trị gia tăng, đặc biệt là các vấn đề xung quanh cuộc xung đột Nga – Ukraine, sẽ kéo theo các cuộc chiến thương mại, ví như cuộc chiến dầu mỏ Nga – Mỹ, cũng là yếu tố tác động mạnh đển các dự báo cung – cầu trên thị trường dầu thô.

Giá dầu phiên giao dịch đầu tuần giảm nhẹ còn do đồng USD lấy lại đà phục hồi và dự trữ dầu thô Mỹ liên tục tăng trong những tuần giao dịch gần đây.

Ghi nhận vào đầu giờ sáng ngày 6/3/2023, theo giờ Việt Nam, trên sàn New York Mercantile Exchanghe, giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 5/2023 đứng ở mức 79,59 USD/thùng; trong khi giá dầu Brent giao tháng 5/2023 đứng ở mức 85,56 USD/thùng.

Tuy nhiên, xu hướng giảm giá của dầu thô nhanh chóng chặn lại khi thị trường dầu thô ghi nhận cảnh báo về tình trạng thắt chặt, bất ổn nguồn cung. Lo ngại này được đặt ra khi các giám đốc điều hành dầu hàng đầu thế giới thảo luận về tình trạng thắt chặt nguồn cung và hy vọng nhu cầu của Trung Quốc tăng tại hội nghị năng lượng CERAWeek ở Houston, bang Texas, Mỹ.

Theo Giám đốc điều hành Tập đoàn Chevron (CVX.N) Mike Wirth, thị trường dầu thô đã khá dễ “nhạy cảm” với bất kỳ sự gián đoạn nguồn cung nào.

Con theo Giám đốc điều hành Torbjorn Tornqvist của Công ty thương mại Gunvor, nhu cầu dầu của Trung Quốc sẽ sớm quay trở lại và là động lực thúc đẩy giá dầu tăng vào nửa cuối năm nay. Ông cũng cho rằng thị trường dầu mỏ giờ đã ổn định.

Giá dầu hôm nay còn được thúc đẩy bởi Ả Rập Xê-út, nhà xuất khẩu dầu hàng đầu thế giới, tăng giá dầu Arab Light bán sang châu Á trong tháng 4/2023.

Ngày 5/3, thị trường dầu thô cũng ghi nhận thông tin Trung Quốc đặt mục tiêu GDP năm 2023 là 5%, thấp hơn mức kỳ vọng 6% được giới phân tích đưa ra.

Dù vậy, đà tăng của giá dầu cũng không thể duy trì khi mà lo ngại Fed sẽ tăng mạnh lãi suất, chấp nhận một cuộc suy thoái kinh tế để hạ nhiệt lạm phát được dấy lên.

Cụ thể, phát biểu trong phiên điều trần trước Ủy ban Ngân hàng Thượng viện Mỹ ngày 7/3, Chủ tịch Fed Jerome Powell cho biết cơ quan này có thể sẽ tăng lãi suất cao hơn dự kiến để phù hợp với những dữ liệu mạnh mẽ gần đây của nền kinh tế.

Chủ tịch Fed cũng cho biết có thể sẽ áp dụng thêm những biện pháp cứng rắn hơn để kiểm soát lạm phát.

Sau phát biểu trên, giới phân tích nhận định Fed có thể sẽ có động thái tăng lãi suất thêm 50, thậm chí 75 điểm phần trăm trong lần tăng lãi xuất tiếp theo sau đợt tăng lãi suất vào cuối tháng 3/2023.

Giá dầu giảm mạnh còn do đồng USD phục hồi và dữ liệu về nhu cầu dầu của Trung Quốc yếu hơn kỳ vọng. Theo dữ liệu được công bố, nhập khẩu dầu thô trong tháng 1 và 2/2023 của Trung Quốc đã giảm 1,3% so với cùng kỳ 2022, xuống còn 10,4 triệu thùng/ngày.

Dữ liệu từ Tổng cục Hải quan Trung Quốc cũng cho thấy, xuất khẩu các sản phẩm từ dầu như xăng, dầu diesel và nhiên liệu bay trong 2 tháng đầu năm 2023 đã tăng tới 74,2%. Điều này càng làm gia tăng lo ngại về triển vọng tiêu thụ dầu của nước này.

Hoạt động sản xuất của Mỹ cũng xuất hiện dấu hiệu tiêu cực. Theo một báo cáo được phát đi tuần trước, số đơn đặt hàng lâu bền của Mỹ đã giảm mạnh 4,5%, cao hơn mức dự báo trong tháng 1/2022, và là mức giảm lớn nhất kể từ tháng 4/2020. Còn theo một báo cáo được công bố ngày 6/3, số đơn đặt hàng mới đối với hàng hóa do Mỹ sản xuất cũng giảm trong tháng 1.

Lo ngại về một đợt tăng lãi suất mới từ các ngân hàng trung ương sau các đợt tăng lãi suất của Fed sẽ khiến kinh tế toàn cầu sớm rơi vào suy thoái và suy thoái với mức độ trầm trọng hơn cũng là yếu tố khiến giá dầu ngày 8/3 lao dốc.

Nguồn cung dầu thô từ Nga ổn định, bất chấp các lệnh cấm vận, trừng phạt của Mỹ và Phương Tây, đặc biệt là việc áp trần giá dầu, cũng giúp hạ nhiệt là ngại thiếu hụt nguồn cung.

Trước những diễn biến gần đây trên thị trường dầu thô, Ngân hàng Barclays đã hạ dự báo giá dầu Brent năm 2023 xuống còn 92 USD/thùng, giảm 6 USD so với dự báo trước đó; trong đó giá dầu WTI được dự báo ở mức 87 USD/thùng, giảm tới 7 USD so với dự báo trước.

Ghi nhận vào đầu giờ sáng ngày 10/3/2023, theo giờ Việt Nam, trên sàn New York Mercantile Exchanghe, giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 5/2023 đứng ở mức 75,66 USD/thùng; trong khi giá dầu Brent giao tháng 6/2023 đứng ở mức 81,50 USD/thùng.

Sau 4 phiên giảm giá mạnh liên tiếp, giá dầu thô đã bất ngờ tăng mạnh trong phiên giao dịch cuối tuần khi thị trường ghi nhận dự báo tồn kho dầu thương mại của Mỹ giảm mạnh và đồng USD mất giá. Lo ngại nguồn cung lại “nóng” lên khi không chỉ Nga và OPEC thực hiện cắt giảm sản lượng mà số lượng giàn khoan của Mỹ cũng giảm.

Thị trường đã “tiêu hóa” được quan điểm diều hâu của Fed về việc tăng lãi suất khi nhiều nhận định cho rằng Fed sẽ khó có thể thắt chặt chính sách tiền tệ hơn nữa và chấp nhận đánh đổi tăng trưởng, đẩy nền kinh tế vào suy thoái.

Theo Reuters, trong tháng 2/2023, bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ đã tăng thêm 311.000 việc làm, cao hơn so với kỳ vọng 205.000 việc làm. Trong khi, theo dữ liệu từ Viện Dầu khí Mỹ (API), trong tuần kết thúc ngày 3/3, tồn kho dầu thương mại của nước này đã giảm 3,8 triệu thùng so với mức dự báo tăng 0,4 triệu thùng, và là lần giảm đầu tiên sau 10 tuần giảm liên tiếp.

Các quyết định mở cửa, nới lỏng biện pháp phòng chống dịch đối với lĩnh vực du lịch được kỳ vọng sẽ là động lực thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ dầu toàn cầu nhờ nhu cầu đi lại gia tăng.

Về phía cung, dữ liệu từ Baker Hughes cho thấy, số lượng giàn khoan dầu của Mỹ đã xuống mức thấp nhất kể từ tháng 6/2022, xuống còn 590 trong tuần này.

Khép tuần giao dịch, giá dầu hôm nay ghi nhận giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 5/2023 theo giờ Việt Nam trên sàn New York Mercantile Exchanghe đứng ở mức 76,68 USD/thùng, tăng 0,96 USD trong phiên; trong khi giá dầu Brent giao tháng 5/2023 đứng ở mức 82,73 USD/thùng, tăng 1,14 USD trong phiên.

Tuy nhiên, tính chung trong tuần giao dịch, giá dầu WTI và Brent đã mất hơn 3 USD/thùng.

Tại thị trường trong nước, giá xăng dầu hôm nay ghi nhận giá bán các mặt hàng xăng dầu tiêu dùng phổ biến trên thị trường như sau: Giá xăng E5 RON 92 không cao hơn 22.421 đồng/lít; giá xăng RON 95 không cao hơn 23.325 đồng/lít; giá dầu diezen 0.05S không cao hơn 20.255 đồng/lít; giá dầu hỏakhông cao hơn 20.474 đồng/lít; giá dầu mazut 180CST 3.5S không cao hơn 14.555 đồng/kg.

Hà Lê

Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 11/3/2023Nhịp đập thị trường năng lượng ngày 11/3/2023
Tin tức kinh tế ngày 11/3: Giá gạo tăng cao nhất trong gần 2 năm quaTin tức kinh tế ngày 11/3: Giá gạo tăng cao nhất trong gần 2 năm qua
Đức vẫn là khách hàng mua năng lượng lớn thứ 2 của NgaĐức vẫn là khách hàng mua năng lượng lớn thứ 2 của Nga
Thu ngân sách từ dầu thô tháng 2/2023 tăng 13,2%Thu ngân sách từ dầu thô tháng 2/2023 tăng 13,2%
Vì sao xăng dầu nhập khẩu tăng đột biến?Vì sao xăng dầu nhập khẩu tăng đột biến?

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
AVPL/SJC HCM 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
AVPL/SJC ĐN 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,450 ▲300K 74,400 ▲300K
Nguyên liệu 999 - HN 73,350 ▲300K 74,300 ▲300K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
Cập nhật: 24/04/2024 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.300 ▲1300K 84.300 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 24/04/2024 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,305 ▲20K 7,520 ▲20K
Trang sức 99.9 7,295 ▲20K 7,510 ▲20K
NL 99.99 7,300 ▲20K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,280 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,370 ▲20K 7,550 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,370 ▲20K 7,550 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,370 ▲20K 7,550 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▲100K 8,400 ▲90K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▲100K 8,400 ▲90K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▲100K 8,400 ▲90K
Cập nhật: 24/04/2024 12:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,300 ▲1300K 84,300 ▲1000K
SJC 5c 82,300 ▲1300K 84,320 ▲1000K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,300 ▲1300K 84,330 ▲1000K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 ▲200K 74,900 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 ▲200K 75,000 ▲200K
Nữ Trang 99.99% 72,900 ▲300K 74,100 ▲200K
Nữ Trang 99% 71,366 ▲198K 73,366 ▲198K
Nữ Trang 68% 48,043 ▲136K 50,543 ▲136K
Nữ Trang 41.7% 28,553 ▲84K 31,053 ▲84K
Cập nhật: 24/04/2024 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,098.90 16,261.52 16,783.15
CAD 18,159.20 18,342.62 18,931.01
CHF 27,214.88 27,489.78 28,371.59
CNY 3,440.60 3,475.35 3,587.37
DKK - 3,586.19 3,723.51
EUR 26,548.81 26,816.98 28,004.42
GBP 30,881.03 31,192.96 32,193.56
HKD 3,165.67 3,197.64 3,300.22
INR - 304.71 316.89
JPY 159.47 161.08 168.78
KRW 16.06 17.84 19.46
KWD - 82,400.13 85,694.10
MYR - 5,275.13 5,390.17
NOK - 2,287.26 2,384.36
RUB - 259.87 287.68
SAR - 6,766.53 7,037.03
SEK - 2,308.48 2,406.48
SGD 18,233.95 18,418.13 19,008.95
THB 609.28 676.97 702.90
USD 25,147.00 25,177.00 25,487.00
Cập nhật: 24/04/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,279 16,379 16,829
CAD 18,384 18,484 19,034
CHF 27,460 27,565 28,365
CNY - 3,473 3,583
DKK - 3,603 3,733
EUR #26,788 26,823 28,083
GBP 31,316 31,366 32,326
HKD 3,173 3,188 3,323
JPY 161.04 161.04 168.99
KRW 16.79 17.59 20.39
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,294 2,374
NZD 14,872 14,922 15,439
SEK - 2,306 2,416
SGD 18,256 18,356 19,086
THB 636.99 681.33 704.99
USD #25,180 25,180 25,487
Cập nhật: 24/04/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,185.00 25,187.00 25,487.00
EUR 26,723.00 26,830.00 28,048.00
GBP 31,041.00 31,228.00 3,224.00
HKD 3,184.00 3,197.00 3,304.00
CHF 27,391.00 27,501.00 28,375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16,226.00 16,291.00 16,803.00
SGD 18,366.00 18,440.00 19,000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18,295.00 18,368.00 18,925.00
NZD 14,879.00 15,393.00
KRW 17.79 19.46
Cập nhật: 24/04/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25244 25244 25487
AUD 16382 16432 16934
CAD 18421 18471 18923
CHF 27649 27699 28264
CNY 0 3476.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26985 27035 27745
GBP 31433 31483 32151
HKD 0 3140 0
JPY 162.31 162.81 167.35
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0368 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14916 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18509 18559 19120
THB 0 650.1 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8380000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 24/04/2024 12:00