FDI công nghệ cao: "Cú hích" với kinh tế Việt Nam

07:00 | 29/09/2022

275 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Thời gian gần đây, nhiều tổ chức quốc tế đã điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam, có dự báo kỳ vọng mức tăng trưởng sẽ vượt 8% trong năm 2022. Nhiều nhà đầu tư quốc tế đặt câu hỏi: Liệu Việt Nam có thể thoát khỏi sự suy thoái kinh tế toàn cầu trong năm 2023?

Trong một nghiên cứu vừa công bố, ông Michael Kokalari - chuyên gia kinh tế trưởng của VinaCapital - cho rằng, một lý do khiến nền kinh tế Việt Nam vượt trội là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang hỗ trợ lĩnh vực sản xuất, đồng thời thúc đẩy tăng cường mức độ phức tạp của các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam. Đây là điều rất quan trọng, vì sự gia tăng mức độ phức tạp của các sản phẩm mà một quốc gia đang phát triển có thể sản xuất là động lực tăng trưởng mạnh mẽ nhất cho nền kinh tế của quốc gia đó.

Đặc biệt, những thông tin gần đây từ Samsung, Apple và nhiều công ty khác khiến VinaCapital tin tưởng rằng, các dòng vốn FDI đầu tư vào công nghệ cao sẽ tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong nhiều năm tới.

FDI công nghệ cao:
Công nhân Nhà máy Intel Products Vietnam

Cụ thể, Samsung đã thông báo sẽ bắt đầu sản xuất các bộ phận bán dẫn tại Việt Nam. Apple cũng thông báo bắt đầu sản xuất Apple Watch và MacBook tại Việt Nam. Đây là lần đầu tiên những sản phẩm này được sản xuất bên ngoài Trung Quốc. Apple đã có kế hoạch lớn cho Việt Nam và họ cũng lưu ý rằng Apple Watch đặc biệt phức tạp để sản xuất, vì thách thức trong việc lắp đặt nhiều linh kiện vào một chiếc vỏ nhỏ như đồng hồ.

Một nghiên cứu của Trường Kinh tế London (LSE) và Ngân hàng Thế giới (WB) gần đây cho biết, FDI là công cụ để giúp các nền kinh tế đang phát triển tiến vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao hơn của chuỗi giá trị và FDI công nghệ cao đã có tác động to lớn đến nền kinh tế Việt Nam.

Intel và Samsung đều tăng cường sản xuất tại các nhà máy đầu tiên của họ ở Việt Nam vào năm 2010 và sau đó, xuất khẩu công nghệ cao của Việt Nam đã tăng gần 20 lần, cùng thời điểm mà nền kinh tế Việt Nam về cơ bản đã tăng trưởng gấp 2 lần.

Hơn nữa, Việt Nam đã đạt được bước nhảy vọt lớn nhất trong xếp hạng Chỉ số phức tạp kinh tế (ECI) của Harvard trong hai thập niên qua, một phần do các khoản đầu tư của Samsung và Intel đã thu hút một loạt các khoản đầu tư công nghệ cao khác từ Apple, LG Electronics, Dell và nhiều công ty Nhật Bản.

Theo phân tích của VinaCapital, những động lực chính thúc đẩy các doanh nghiệp thành lập nhà máy công nghệ cao tại Việt Nam là lực lượng lao động có kỹ năng cao, mặt bằng lương thấp, vị trí địa lý gần với các chuỗi cung ứng công nghệ cao ở châu Á...

FDI công nghệ cao:
Nhân viên Samsung tại dây chuyền sản xuất

Bên cạnh đó, căng thẳng thương mại Mỹ - Trung gần đây đã thúc đẩy sự dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam. Minh chứng là thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ tăng hơn gấp đôi từ 35 tỉ USD năm 2018 lên 71 tỉ USD trong năm 2021, cùng lúc đó, thâm hụt thương mại với Trung Quốc cũng tăng hơn gấp đôi lên 54 tỉ USD. Trong thông báo mới đây, Mỹ sẽ giữ nguyên mức thuế đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc. Điều này bảo đảm rằng các tập đoàn đa quốc gia sẽ tiếp tục rót vốn FDI vào Việt Nam trong nhiều năm tới.

Theo các chuyên gia, FDI công nghệ cao sẽ thúc đẩy GDP của Việt Nam theo hai cách là nâng cao thu nhập và nâng cao năng lực của đất nước đối với các sản phẩm phức tạp. Điều này hỗ trợ tăng trưởng GDP trong ngắn hạn, vì tiêu dùng nội địa chiếm 2/3 GDP của Việt Nam và thúc đẩy triển vọng kinh tế dài hạn của Việt Nam.

Thực tế, kết quả của hai tác động đó là việc sản xuất điện thoại thông minh, thiết bị điện tử gia dụng và các sản phẩm khác có mức độ phức tạp tương đối cao đã đóng góp hơn 1.000 USD trong tổng số 3.000 USD giá trị GDP bình quân đầu người của Việt Nam vào năm 2020.

Bên cạnh đó, doanh thu và lợi nhuận của hầu hết các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam chủ yếu liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến tiêu dùng nội địa được cải thiện đáng kể trong thời gian qua. Đây cũng là kết quả của việc gia tăng dòng vốn FDI công nghệ cao.

Dù hiện nay các nhà máy FDI ở Việt Nam vẫn nhập khẩu hầu hết các linh kiện đầu vào của sản xuất, song VinaCapital kỳ vọng hàm lượng nhập khẩu trong sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm dần và đóng góp của hàm lượng nội địa sẽ tăng cao khi các doanh nghiệp trong nước củng cố khả năng cung cấp sản phẩm đầu vào sản xuất cho các công ty FDI trong những năm tới.

FDI công nghệ cao:
Sản xuất đại trà lưới bóng chíp bán dẫn tại Việt Nam

Bên cạnh đó, làn sóng FDI mới đầu tư vào sản xuất một số sản phẩm phức tạp nhất từng được sản xuất tại Việt Nam sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa khiến các nhà sản xuất trong nước phải đa dạng hóa sang các phân khúc có giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi giá trị.

Theo các nhà nghiên cứu sản xuất tại LSE và WB, việc lắp ráp, sản xuất thực tế các sản phẩm chế tạo chỉ chiếm khoảng 1/3 tổng giá trị các sản phẩm đó, tức là thấp nhất trong chuỗi giá trị. Đây cũng là phân khúc trọng tâm của lĩnh vực sản xuất của Việt Nam.

VinaCapital cho rằng, kế hoạch của Apple và Samsung sản xuất một số sản phẩm công nghệ tiên tiến nhất được sản xuất tại Việt Nam sẽ thúc đẩy đáng kể tăng trưởng GDP của Việt Nam trong những năm tới và bảo đảm rằng sự tăng trưởng kinh tế mà Việt Nam đạt được trong năm 2022 sẽ tiếp tục được duy trì trong năm 2023.

Nghiên cứu gần đây cho thấy, những cải thiện trong khả năng sản xuất các sản phẩm phức tạp của một quốc gia là dự báo tốt nhất về tăng trưởng kinh tế và quan điểm của VinaCapital về sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam cũng chứng thực cho những nghiên cứu này.

“Từ các công ty niêm yết vốn hóa lớn đến các doanh nghiệp nhỏ am hiểu công nghệ đã khiến VinaCapital đánh giá cao sự tương đồng mạnh mẽ giữa nền kinh tế Việt Nam trong những năm 2020 và Nhật Bản trong những năm 1970 khi cả hai nước đều bắt tay vào việc gia tăng chuỗi giá trị toàn cầu trong nhiều thập kỷ sau đó. VinaCapital rất lạc quan về triển vọng kinh tế Việt Nam và triển vọng giá cổ phiếu sẽ tăng cao trong những năm tới”, ông Michael Kokalari nhấn mạnh.

Samsung sẽ bắt đầu sản xuất các bộ phận bán dẫn tại Việt Nam. Apple cũng bắt đầu sản xuất Apple Watch và MacBook tại Việt Nam. Đây là lần đầu tiên những sản phẩm này được sản xuất bên ngoài Trung Quốc. Theo Apple, Apple Watch đặc biệt phức tạp để sản xuất, vì thách thức trong việc lắp đặt nhiều linh kiện vào một chiếc vỏ nhỏ như đồng hồ.

Phương Nam

Lào là thị trường đầu tư ra nước ngoài lớn nhất của Việt Nam 9 tháng đầu nămLào là thị trường đầu tư ra nước ngoài lớn nhất của Việt Nam 9 tháng đầu năm
Anh tăng đầu tư dầu khí: Thuốc trị bách bệnh?Anh tăng đầu tư dầu khí: Thuốc trị bách bệnh?
Điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án khu công nghiệp Đức Hòa III - SlicoĐiều chỉnh chủ trương đầu tư dự án khu công nghiệp Đức Hòa III - Slico
Điều chỉnh, bổ sung dự toán chi đầu tư phát triển vốn ngân sách trung ương năm 2022Điều chỉnh, bổ sung dự toán chi đầu tư phát triển vốn ngân sách trung ương năm 2022
Còn tâm lý nôn nóng gỡ gạc, nhà đầu tư chứng khoán có thể càng thua đauCòn tâm lý nôn nóng gỡ gạc, nhà đầu tư chứng khoán có thể càng thua đau
Quá bán, cổ phiếu ngân hàng, chứng khoán, đầu tư công hồi phụcQuá bán, cổ phiếu ngân hàng, chứng khoán, đầu tư công hồi phục

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,650
AVPL/SJC HCM 81,700 83,700
AVPL/SJC ĐN 81,700 83,700
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,650
Cập nhật: 20/04/2024 02:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.000 83.800
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,465 7,670
Trang sức 99.9 7,455 7,660
NL 99.99 7,460
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,440
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,530 7,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,530 7,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,530 7,700
Miếng SJC Thái Bình 8,190 8,370
Miếng SJC Nghệ An 8,190 8,370
Miếng SJC Hà Nội 8,190 8,370
Cập nhật: 20/04/2024 02:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,800 83,800
SJC 5c 81,800 83,820
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,800 83,830
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,981 16,001 16,601
CAD 18,171 18,181 18,881
CHF 27,422 27,442 28,392
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,537 3,707
EUR #26,203 26,413 27,703
GBP 30,917 30,927 32,097
HKD 3,116 3,126 3,321
JPY 160.29 160.44 169.99
KRW 16.24 16.44 20.24
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,224 2,344
NZD 14,703 14,713 15,293
SEK - 2,249 2,384
SGD 18,106 18,116 18,916
THB 637 677 705
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 02:00