Chiến tranh thương mại phủ bóng lên kinh tế toàn cầu

07:01 | 17/05/2019

205 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Căng thẳng thương mại Mỹ - Trung leo thang đang đe dọa đảo ngược đà phục hồi kinh tế toàn cầu đã được kỳ vọng từ lâu.

Nỗi lo các công ty giảm đầu tư, người tiêu dùng giảm chi tiêu và cổ phiếu lao dốc đã quay trở lại sau khi Mỹ và Trung Quốc gần đây lần lượt nâng thuế với hàng nhập khẩu của nhau. Cổ phiếu toàn cầu tuần này nhìn chung đi xuống. Lợi suất trái phiếu Mỹ kỳ hạn 2 năm cũng xuống thấp nhất kể từ tháng 2/2018.

Tăng trưởng toàn cầu vốn đã chậm lại. Vì thế, nếu yếu thêm nữa, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) và các ngân hàng trung ương khác sẽ càng lưỡng lự trong việc nâng thuế, thậm chí sẽ phải tung các gói kích thích mới. Morgan Stanley đã ra cảnh báo toàn cầu suy thoái nếu Mỹ và Trung Quốc tiếp tục bất đồng.

"Ngay khi toàn cầu có dấu hiệu hồi phục, căng thẳng thương mại lại xuất hiện và trở thành mối đe dọa lớn", Chetan Ahya - kinh tế trưởng tại Morgan Stanley cho biết. Ông nhấn mạnh cuộc chiến thuế nhập khẩu sẽ "ảnh hưởng nghiêm trọng lên niềm tin doanh nghiệp".

Chiến tranh thương mại phủ bóng lên kinh tế toàn cầu
Một cảng bốc dỡ hàng hóa tại Hamburg (Đức). Ảnh: Reuters

Những phân tích này càng trở nên rõ ràng, khi Trung Quốc hôm qua công bố hàng loạt số liệu cho thấy tăng trưởng chậm lại trong tháng 4. Cả sản lượng công nghiệp, doanh số bán lẻ và đầu tư đều tăng chậm hơn dự báo. Còn tại Mỹ, doanh số bán lẻ tháng trước cũng đột ngột đi xuống, còn sản lượng tại nhà máy giảm tháng thứ 3 trong 4 tháng gần nhất.

Đức đã thoát tình trạng tăng trưởng trì trệ, khi GDP tăng 0,4% trong quý I. Tuy nhiên, triển vọng của nền kinh tế lớn nhất châu Âu vẫn rất mong manh, trong bối cảnh sản xuất đi xuống. Niềm tin nhà đầu tư tại Đức tháng này bất ngờ giảm, lần đầu tiên kể từ tháng 10/2018.

Việc này thậm chí diễn ra trước cả khi căng thẳng Mỹ - Trung leo thang. Trong báo cáo tháng trước, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã cảnh báo tác động từ chủ nghĩa bảo hộ sẽ khiến tăng trưởng toàn cầu năm nay thấp nhất kể từ khủng hoảng tài chính.

Trong nghiên cứu mới nhất, Bloomberg Economics tính toán khoảng 1% hoạt động kinh tế toàn cầu chịu ảnh hưởng từ hoạt động trao đổi hàng hóa - dịch vụ giữa Mỹ và Trung Quốc. Gần 4% sản lượng hàng hóa của Trung Quốc là xuất khẩu sang Mỹ. Vì thế, bất kỳ cú đánh nào lên các hãng sản xuất nước này đều sẽ tác động liên đới tới chuỗi cung ứng trong khu vực, như Đài Loan (Trung Quốc) và Hàn Quốc.

Số hàng hóa Mỹ xuất khẩu sang Trung Quốc hạn chế hơn. Tuy vậy, Trung Quốc cũng là điểm đến của 5,1% nông sản và 3,3% hàng sản xuất của Mỹ.

Nhiều nhà kinh tế học vẫn đặt cược rằng Mỹ và Trung Quốc cuối cùng cũng sẽ đạt thỏa thuận thương mại, có thể tại Hội nghị thượng đỉnh G20 cuối tháng 6 này. Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình có thể gặp nhau tại đây. Tuy vậy, các nhà kinh tế học cũng thừa nhận họ bị bất ngờ vì diễn biến leo thang mới đây, và khả năng đàm phán đổ vỡ ngày càng tăng.

Chiến tranh thương mại sẽ càng gây sức ép lên tăng trưởng toàn cầu vốn đang yếu đi và quay cuồng vì nhiều vấn đề, như bong bóng công nghệ đang hạ nhiệt hay nhu cầu xe hơi chậm lại, đặc biệt tại Trung Quốc. Với các công ty, việc này đồng nghĩa triển vọng kinh doanh đi xuống.

Đại gia chip Intel (Mỹ) cho biết đang "thận trọng hơn về tình hình năm nay". Hãng đồ uống Italy - Davide Campari-Milano tháng này lưu ý "môi trường kinh tế vĩ mô và địa chính trị bất ổn".

"Kinh tế thế giới đã chậm lại đáng kể một thời gian rồi", James Bevan - Giám đốc Đầu tư tại CCLA Investment Management nhận xét, "Mọi người phải tỉnh lại và xem xét các số liệu thương mại".

Đối với các ngân hàng trung ương, triển vọng u ám có thể khiến họ càng chịu sức ép nới lỏng. Đầu năm nay, Fed ám chỉ sẽ giữ nguyên lãi suất thêm một thời gian nữa.

Trong trường hợp xấu nhất, nếu căng thẳng kéo dài thêm 3 tháng nữa và hai nước tiếp tục áp thuế lên nhau, các nhà kinh tế học tại Morgan Stanley cho rằng Trung Quốc sẽ nới lỏng chính sách tài khóa với quy mô tương đương 0,5% GDP, đồng thời nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng tín dụng. Còn Fed sẽ giảm lãi suất tham chiếu thêm 0,5%. "Cuộc chiến thuế nhập khẩu leo thang sẽ kéo lùi kinh tế toàn cầu và đe dọa khả năng tăng trưởng", Joseph Lupton - nhà kinh tế học tại JPMorgan Chase & Co cảnh báo.

Theo VNE

Chiến tranh thương mại - “phát súng mở màn” cho cuộc đối đầu Mỹ - Trung
Ông Trump ban bố tình trạng khẩn cấp, Mỹ đưa Huawei vào danh sách đen
Ái nữ nhà “vua tôm” Lê Văn Quang – Chu Thị Bình từ bỏ cổ phần
Trump: 'Nếu Fed giảm lãi suất, Mỹ sẽ thắng Trung Quốc'
Ông Vương Nghị: Mỹ - Trung đủ "trí tuệ" để đàm phán thành công

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 115,400 117,700
AVPL/SJC HCM 115,400 117,700
AVPL/SJC ĐN 115,400 117,700
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 06/06/2025 10:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
TPHCM - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Hà Nội - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Hà Nội - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Đà Nẵng - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Đà Nẵng - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Miền Tây - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Miền Tây - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.300 ▲300K 113.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.190 ▲300K 113.690 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.490 ▲300K 112.990 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.260 ▲290K 112.760 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.000 ▲220K 85.500 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.220 ▲170K 66.720 ▲170K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.990 ▲120K 47.490 ▲120K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.840 ▲270K 104.340 ▲270K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.070 ▲180K 69.570 ▲180K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.620 ▲190K 74.120 ▲190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.030 ▲200K 77.530 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.330 ▲120K 42.830 ▲120K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.200 ▲90K 37.700 ▲90K
Cập nhật: 06/06/2025 10:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,010 11,440
Trang sức 99.9 11,000 11,430
NL 99.99 10,760
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,760
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,220 11,500
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,220 11,500
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,220 11,500
Miếng SJC Thái Bình 11,600 ▲60K 11,800 ▲30K
Miếng SJC Nghệ An 11,600 ▲60K 11,800 ▲30K
Miếng SJC Hà Nội 11,600 ▲60K 11,800 ▲30K
Cập nhật: 06/06/2025 10:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16403 16671 17244
CAD 18530 18807 19427
CHF 31114 31492 32126
CNY 0 3530 3670
EUR 29173 29443 30469
GBP 34549 34941 35878
HKD 0 3190 3392
JPY 174 178 184
KRW 0 18 19
NZD 0 15409 16000
SGD 19713 19994 20517
THB 714 777 830
USD (1,2) 25795 0 0
USD (5,10,20) 25835 0 0
USD (50,100) 25863 25897 26238
Cập nhật: 06/06/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,930 35,024 35,959
HKD 3,263 3,272 3,371
CHF 31,306 31,404 32,277
JPY 177.68 178 185.94
THB 762 771.41 825.07
AUD 16,733 16,794 17,247
CAD 18,815 18,875 19,385
SGD 19,921 19,983 20,615
SEK - 2,677 2,770
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,933 4,069
NOK - 2,544 2,633
CNY - 3,593 3,691
RUB - - -
NZD 15,418 15,562 16,016
KRW 17.84 - 19.98
EUR 29,382 29,406 30,658
TWD 786.34 - 951.34
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,666 88,008
XAU - - -
Cập nhật: 06/06/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 06/06/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25885 25885 26235
AUD 16613 16713 17281
CAD 18726 18826 19381
CHF 31371 31401 32287
CNY 0 3594.8 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29487 29587 30359
GBP 34888 34938 36049
HKD 0 3270 0
JPY 177.83 178.83 185.35
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15554 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19877 20007 20738
THB 0 742.8 0
TWD 0 850 0
XAU 11100000 11100000 11750000
XBJ 10800000 10800000 11750000
Cập nhật: 06/06/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,890 25,940 26,241
USD20 25,890 25,940 26,241
USD1 25,890 25,940 26,241
AUD 16,665 16,815 17,886
EUR 29,536 29,686 30,862
CAD 18,671 18,771 20,088
SGD 19,960 20,110 20,586
JPY 178.31 179.81 184.46
GBP 34,982 35,132 35,930
XAU 11,538,000 0 11,772,000
CNY 0 3,481 0
THB 0 780 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 06/06/2025 10:00