Chế biến sản phẩm nông nghiệp thu hút hơn 20.000 tỷ đồng vốn đầu tư
![]() |
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam phát biểu tại hội thảo |
Theo số liệu thống kê của Bộ NN&PTNT, hiện Việt Nam đã bước đầu hình thành được hệ thống chế biến nông sản với trên 7.500 cơ sở quy mô công nghiệp gắn xuất khẩu. Ngoài ra, còn có hàng vạn cơ sở nhỏ, lẻ, hộ gia đình rải khắp các địa bàn làm nhiệm vụ sơ chế, chế biến phục vụ tiêu dùng nội địa. Một số tập đoàn kinh tế lớn đã chú trọng đầu tư vào chế biến sản phẩm nông nghiệp.
Tại hội thảo, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT) Phạm Văn Duy cho hay, chỉ tính từ năm 2018 đến nay, đã có 30 dự án đầu tư lớn vào chế biến sản phẩm nông nghiệp đã hoạt động và đang triển khai trên cả nước với tổng vốn đầu tư trên 20.000 tỷ đồng.
![]() |
Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT) Phạm Văn Duy báo cáo tại hội thảo |
Nhìn chung trình độ công nghệ chế biến nông sản Việt Nam đạt mức độ trung bình đến trung bình khá. Một số ngành hàng hoặc một số sản phẩm có công nghệ và thiết bị chế biến tương đối hiện đại mang tầm của khu vực và thế giới, như chế biến hạt điều, chế biến lúa gạo, tôm, cá tra. Bước đầu một số ngành hàng, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đã đầu tư đổi mới công nghệ, chú trọng áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật tiên tiến, đã đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và an toàn thực phẩm đối với các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản…
Công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu phát triển đã góp phần làm chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu sản xuất nông nghiệp, từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp tiến lên nền nông nghiệp hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn nhằm cung cấp nguyên liệu đầu vào cho chế biến, phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng nội địa như mặt hàng quả vải, nhãn, cam, chè, mía, thủy sản...; chế biến nông sản đã giải quyết việc làm trực tiếp cho khoảng 1,6 triệu lao động; nhiều ngành hàng trong lĩnh vực chế biến nông sản đã hội nhập rất tốt với kinh tế thế giới. Sản phẩm chế biến nông sản Việt Nam đã xuất khẩu hầu khắp các nước trên thế giới trên 180 nước và vùng lãnh thổ, kể cả thị trường khó tính như: EU, Mỹ, Nhật bản, Australia.
Về phát triển cơ giới hóa, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn Lê Đức Thịnh cho biết, đến nay, trang bị động lực bình quân trong sản xuất nông nghiệp cả nước đạt khoảng 2,4 HP/ha canh tác. Mức độ cơ giới hoá này còn thấp, trong khi một số nước trong khu vực có mức độ cơ giới hóa cao như: Thái Lan đạt 4 HP/ha, Hàn Quốc 10 HP/ha. Tuy nhiên, phát triển cơ giới hóa chưa toàn diện. Cơ giới hóa mới tập trung chủ yếu làm đất, chăm sóc, thu hoạch lúa, khâu cấy bằng máy còn thấp. Cơ giới hóa chăm sóc cây ăn quả, thu hoạch mía, cà phê, thủy sản còn hạn chế. Trình độ trang bị máy động lực còn lạc hậu, thể hiện hầu hết các máy làm đất công suất nhỏ, chỉ thích hợp với quy mô hộ và đất manh mún.
Tại hội thảo, các đại biểu cho rằng, việc phát triển công nghệ, thiết bị tiên tiến cần phù hợp với điều kiện từ vùng và từng sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, đẩy mạnh chế biến sau để nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm, đặc biệt trong bối cảnh công nghệ chế biến ngày càng phát triển.
![]() |
Toàn cảnh hội thảo |
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam nhấn mạnh, tương lai nông sản Việt Nam có thắng trên thị trường thế giới hay không phụ thuộc lớn vào công nghệ chế biến và sau thu hoạch. Nhờ công nghiệp chế biến tăng trưởng, phát tiển mạnh nên trong những năm vưa qua Việt Nam tiếp tục duy trì 10 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu hàng năm từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó có 6 mặt hàng đạt kim ngạch trên 3 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu năm 2018 đạt trên 40 tỷ USD, tăng 9,6% so với 2017.
Thứ trưởng Trần Thanh Nam cũng cho biết, từ thực trạng, lợi thế, khó khăn, thách thức, nhất là thách thức từ biến đổi khí hậu và hội nhập kinh tế, ngành nông nghiệp Việt Nam mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, công nghiệp chế biến nông sản có đủ năng lực chế biến đảm bảo đầu ra cho sản xuất nông nghiệp. Trong đó, công nghệ chế biến đạt trình độ công nghệ từ trung bình tiên tiến trở lên, thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN, một số ngành hàng dẫn đầu thế giới. Các sản phẩm sau chế biến phải đáp ứng tốt các yêu cầu của thị trường tiêu thụ, có khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm, góp phần tăng nhanh giá trị gia tăng và kim ngạch xuất khẩu.
Cụ thể, mục tiêu đến năm 2030 tỷ trọng công nghiệp chế biến nông sản trong GDP của ngành nông nghiệp đạt trên 30%. Tốc độ giá trị hàng hóa nông sản qua chế biến đạt 7-8%/năm. Trên 50% số cơ sở chế biến mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực đạt trình độ công nghệ sản xuất tiên tiến. Tốc độ năng suất lao động đạt trên 7%/năm. Mức độ cơ giới hóa các khâu trong sản xuất nông nghiệp đạt từ 90 – 100%...; cần nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế cho doanh nghiệp chế biến nông sản theo hướng tăng cường năng lực, nguồn lực, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước.
Nguyễn Hoan
-
Bão Trami có thể gây mưa đến 700mm, cảnh báo ngập lụt diện rộng
-
Bộ NN&PTNT đề xuất lập bản đồ chi tiết cảnh báo thiên tai
-
Xây dựng kịch bản ứng phó phù hợp với áp thấp nhiệt đới có khả năng mạnh lên thành bão
-
Kết nối sản phẩm khoa học, công nghệ đến gần hơn với doanh nghiệp
-
Việt Nam nhận khoản chi trả 51,5 triệu USD từ WB cho giảm phát thải: Tiềm năng còn rất lớn!
-
Tin thị trường: Giá dầu thế giới hôm nay trở lại sắc đỏ
-
Bản tin Năng lượng Quốc tế 21/4: Vương quốc Anh dẫn đầu thế giới về điện gió
-
Giá dầu thế giới có thể giảm tới mức nào?
-
Những sự kiện nổi bật trên Thị trường Năng lượng Quốc tế tuần từ 14/4 - 19/4
-
Bản tin Năng lượng Quốc tế 18/4: Mỹ tiếp tục trừng phạt ngành dầu mỏ Iran