Các nước lo lạm phát, Trung Quốc lại lo giảm phát

07:19 | 06/08/2023

70 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Nhiều quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt với tỷ lệ lạm phát cao, thì Trung Quốc lại đang có nguy cơ rơi vào một giai đoạn giá cả sụt giảm kéo dài.

Tại Thượng Hải, Liu Wang, nhân viên một công ty logistic, buộc tạm dừng kế hoạch cải tạo căn hộ chung cư của mình vì lo ngại các sản phẩm bất động sản sẽ tiếp tục rớt giá trong thời gian tới.

"Điều kiện kinh tế hiện tại tương đối bất ổn", Liu chia sẻ với Wall Street Journal.

Đà phục hồi của nền kinh tế số hai thế giới đang có phần chững lại trong bối cảnh thị trường bất động sản và hoạt động xuất khẩu suy yếu. Doanh nghiệp của anh thời gian gần đây cũng dần chuyển hướng sang thị trường vận tải nội địa khi đơn hàng xuất khẩu sụt giảm.

Còn tại thành phố Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, quê hương của Liu, nhu cầu nhà ở vẫn ảm đạm dù giá nhà giảm mạnh. "Bong bóng nhà ở vẫn khá lớn. Tôi không thấy bất cứ động lực nào giúp giá cả có thể đi lên ở thời điểm hiện tại", Liu cho biết.

Các nước lo lạm phát, Trung Quốc lại lo giảm phát - 1
Nỗi lo giá nhà giảm khiến Liu chần chừ chi tiền cải tạo (Ảnh: Zuma Press).

"Trượt" vào giảm phát

Chính tâm lý dè dặt trên góp phần hình thành nên một hiện tượng "đối lập" tại Trung Quốc so với phần còn lại của thế giới.

Trong khi nhiều quốc gia khác phải vật lộn với trình trạng lạm phát cao thì Trung Quốc lại đang đối diện với rủi ro rơi vào một giai đoạn giá cả sụt giảm kéo dài, hay còn gọi là giảm phát.

Mức giá nguyên vật liệu đầu vào cho các nhà máy thép, xi măng, hóa chất... tại Trung Quốc liên tục đi xuống. Trong khi đó, giá hàng hóa tiêu dùng lại "dậm chân tại chỗ" với một số mặt hàng quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày như đường, trứng, quần áo và đồ gia dụng thậm chí đi lùi do nhu cầu yếu.

Và hệ quả là lợi nhuận của các doanh nghiệp sụt giảm, kéo tăng tỷ lệ người lao động mất việc làm. Điều này được thể hiện rõ qua số liệu gần đây với lợi nhuận các doanh nghiệp sản xuất tại nước này thấp hơn 16,8% kể từ đầu năm so với cùng kỳ năm trước, trong khi tỷ lệ người trẻ thất nghiệp tăng cao kỷ lục.

Một bộ phận chuyên gia kinh tế cho rằng Trung Quốc có thể né được một giai đoạn giảm phát sâu và kéo dài. Nền kinh tế nước này vẫn đang tăng trưởng, dù không quá nhanh, trong khi chính phủ liên tục tung ra nhiều giải pháp hỗ trợ, dù chưa quá lớn.

Đầu tháng 7, Liu Guoqiang, Phó thống đốc Ngân hàng trung ương Trung Quốc, đích thân lên tiếng xoa dịu những quan ngại về việc nền kinh tế số hai thế giới đang "trượt" vào giảm phát.

Tuy nhiên, cũng có không ít chuyên gia mang quan điểm thận trọng trước nhiều điểm tương đồng giữa Trung Quốc ở thời điểm hiện tại và Nhật Bản trong quá khứ, với một giai đoạn giá cả sụt giảm kéo dài, đi cùng với đó là tốc độ phát triển ì ạch.

Vào thập niên 90 của thế kỷ trước, sự sụp đổ của thị trường chứng khoán và đà mất giá các sản phẩm bất động sản khiến doanh nghiệp và người dân tại xứ sở mặt trời mọc dè dặt chi tiêu nhằm có thêm tiền trả nợ. Theo họ, một cuộc suy thoái bảng cân đối kế toán, giống như từng xảy ra tại Nhật Bản, đang dần hình thành tại nền kinh tế số hai thế giới.

Các nước lo lạm phát, Trung Quốc lại lo giảm phát - 2
Lạm phát tiêu dùng và sản xuất tại Trung Quốc thấp hơn nhiều so với Mỹ và châu Âu (Ảnh: Wall Street Journal).

Nếu không may trượt vào một giai đoạn giảm phát kéo dài, Trung Quốc còn phải đối diện với một vấn đề lớn khác: chi tiêu chính phủ, phương pháp chống giảm phát truyền thống, có thể sẽ không đem lại những tác dụng như mong muốn do tỷ lệ nợ tại quốc gia Đông Á này quá cao.

Tỷ lệ nợ cao, người dân không muốn phải đi vay thêm nữa

Bắc Kinh từ lâu luôn hoài nghi về tính hiệu quả của các gói kích thích tài khóa lớn nhằm hỗ trợ tăng trưởng và đẩy giá hàng hóa đi lên, nhưng những con số nợ khổng lồ sẽ khiến người dân cũng như doanh nghiệp ngần ngại vay mượn và tiêu dùng.

"Quan ngại lớn nhất xoay quanh việc liệu các công cụ chính sách có đủ sức kéo Trung Quốc khỏi vòng xoáy giảm phát và phát huy tác dụng mỗi lần hiện tượng này xảy ra", Eswar Prasad, Giáo sư chính sách thương mại và kinh tế học tại Trường Đại học Cornell, người từng đảm nhiệm công tác theo dõi kinh tế Trung Quốc tại Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), chia sẻ với Wall Street Journal.

Các doanh nghiệp Trung Quốc dường như không mặn mà "gánh" thêm các khoản nợ để mở rộng sản xuất. Trong khi đó, ngày càng nhiều người mua nhà lựa chọn hình thức thanh toán sớm các khoản vay thế chấp.

Tỷ lệ nợ của người dân cũng như doanh nghiệp nước này đã quá lớn, và họ đơn giản không muốn nó tăng thêm. Hiện nợ hộ gia đình cao tại Trung Quốc cao hơn 1,5 lần thu nhập của họ, vượt lên trên các quốc gia phát triển như Mỹ, theo thống kê của công ty tư vấn Global Counsel.

Giảm phát, hoặc nỗi sợ giảm phát có thể làm cho tính hình trở nên tồi tệ hơn. Người vay tiền lo lắng chi phí trả nợ sẽ tăng cao, do đó, họ lựa chọn tiết kiệm và bóp chặt hầu bao.

"Giảm phát trở nên thực sự nguy hiểm trong giai đoạn có tỷ lệ nợ cao", Arthur Budaghyan, Kinh tế trưởng phụ trách các nền kinh tế mới nổi tại BCA Research, cảnh báo với WSJ.

Một số yếu tố mang tính chất thời điểm cũng góp phần hình thành nên hiện tượng này.

Nhu cầu hàng hóa yếu dần

Tại Trung Quốc, giá thịt lợn không còn tăng phi mã như trong năm 2022. Nhu cầu hàng hóa toàn cầu cũng không còn dồi dào như trước. Trong giai đoạn đại dịch, chỉ số giá sản xuất tại quốc gia này tăng tới 12%, theo ước tính của Moody's Analytics.

Nhưng khi các chính phủ gỡ bỏ các quy định phòng dịch, nhu cầu hàng hóa yếu dần. Lạm phát sản xuất tại Trung Quốc bắt đầu đi xuống từ tháng 10 năm ngoái và chưa có dấu hiệu đảo chiều.

Các nhà máy tại Trung Quốc, với nỗ lực mở rộng nhằm đáp ứng nhu cầu toàn cầu lớn khi Covid-19 ập tới, hiện tại phải đối mặt với tình trạng dư thừa công suất. Họ hy vọng người tiêu dùng nội địa sẽ tham gia "giải cứu" lượng hàng tồn kho quá lớn nhưng điều đó đã không xảy ra.

Với thực tế giá năng lượng và thực phẩm toàn cầu thấp hơn nhiều so với trước, các chuyên gia kinh tế kỳ vọng lạm phát tiêu dùng tại Trung Quốc tiếp tục đi ngang trong nhiều tháng tới.

Các nước lo lạm phát, Trung Quốc lại lo giảm phát - 3
Giá cả hàng hóa tiêu dùng tại Trung Quốc được dự báo không có nhiều thay đổi thời gian tới (Ảnh: Zuma Press).

Sức ảnh hưởng của tình trạng này có thể lan rộng ra toàn cầu theo hai chiều hướng. Đầu tiên, lạm phát tại một số quốc gia có mối quan hệ thương mại thân thiết với Trung Quốc sẽ thuyên giảm.

Nhưng cùng thời điểm đó, nhu cầu nguyên vật liệu thô đầu vào cho quá trình sản xuất tại "công xưởng" thế giới cũng dần suy yếu, ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động xuất khẩu của nhiều quốc gia, và rộng hơn là việc làm, đầu tư tại những quốc gia đó.

"Thị trường đang đánh giá thấp tác động từ giảm phát tới nền kinh tế toàn cầu", Frederic Neumann, Kinh tế trưởng châu Á tại HSBC, chia sẻ với WSJ.

Thách thức đối với Trung Quốc ở thời điểm hiện tại là ngăn chặn giảm phát và không để hiện tượng giảm phát trở nên cố kết. Nếu không, người dân sẽ mang tâm lý chờ đợi giá cả tiếp tục sụt giảm mới chi tiêu, qua đó đẩy nền kinh tế nước này chìm sâu hơn vào hiện tượng này.

Giảm phát càng tồn tại lâu, những tác động của nó càng trở nên nghiêm trọng. Các khoản nợ trở nên khó trả khi lợi nhuận doanh nghiệp "bay hơi". Họ buộc phải sa thải người lao động để tiết kiệm chi phí.

Chính phủ Trung Quốc cần phải hành động. Nếu chậm trễ, nền kinh tế số hai thế giới sẽ rơi vào một vòng xoáy không dễ dàng thoát ra.

Theo Dân trí

Dòng vốn Trung Quốc vội vã tháo chạy khỏi các nước phương Tây

Dòng vốn Trung Quốc vội vã tháo chạy khỏi các nước phương Tây

Dòng tiền đầu tư của Trung Quốc từng gây chấn động tại các nước phương Tây với nhiều thương vụ quy mô lớn, thâu tóm nhiều tài sản có giá trị "khủng". Nhưng giờ đây xu hướng này đang dần thay đổi.

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,800 119,300
AVPL/SJC HCM 116,800 119,300
AVPL/SJC ĐN 116,800 119,300
Nguyên liệu 9999 - HN 10,870 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,860 11,190
Cập nhật: 20/05/2025 07:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.500 114.500
TPHCM - SJC 116.800 119.300
Hà Nội - PNJ 111.500 114.500
Hà Nội - SJC 116.800 119.300
Đà Nẵng - PNJ 111.500 114.500
Đà Nẵng - SJC 116.800 119.300
Miền Tây - PNJ 111.500 114.500
Miền Tây - SJC 116.800 119.300
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.500 114.500
Giá vàng nữ trang - SJC 116.800 119.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.500
Giá vàng nữ trang - SJC 116.800 119.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.500 114.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.500 114.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.500 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.390 113.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.690 113.190
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.460 112.960
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.150 85.650
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.340 66.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.070 47.570
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.020 104.520
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.190 69.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.750 74.250
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.170 77.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.400 42.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.270 37.770
Cập nhật: 20/05/2025 07:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,970 11,420
Trang sức 99.9 10,960 11,410
NL 99.99 10,530
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,530
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,180 11,480
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,180 11,480
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,180 11,480
Miếng SJC Thái Bình 11,680 11,930
Miếng SJC Nghệ An 11,680 11,930
Miếng SJC Hà Nội 11,680 11,930
Cập nhật: 20/05/2025 07:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16191 16458 17032
CAD 18069 18344 18963
CHF 30511 30887 31534
CNY 0 3358 3600
EUR 28634 28901 29932
GBP 33958 34347 35277
HKD 0 3186 3389
JPY 172 176 182
KRW 0 17 19
NZD 0 15023 15612
SGD 19507 19787 20315
THB 700 763 816
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26130
Cập nhật: 20/05/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,770 25,770 26,130
USD(1-2-5) 24,739 - -
USD(10-20) 24,739 - -
GBP 34,173 34,265 35,191
HKD 3,260 3,270 3,369
CHF 30,671 30,766 31,623
JPY 175.4 175.72 183.61
THB 747.96 757.2 810.15
AUD 16,431 16,491 16,937
CAD 18,346 18,405 18,899
SGD 19,678 19,739 20,365
SEK - 2,624 2,718
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,839 3,971
NOK - 2,463 2,552
CNY - 3,560 3,656
RUB - - -
NZD 14,971 15,110 15,550
KRW 17.34 18.09 19.42
EUR 28,679 28,702 29,923
TWD 777.25 - 940.28
MYR 5,646.84 - 6,374.58
SAR - 6,802.33 7,160.02
KWD - 82,231 87,436
XAU - - -
Cập nhật: 20/05/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,426 28,540 29,642
GBP 33,868 34,004 34,975
HKD 3,250 3,263 3,369
CHF 30,456 30,578 31,483
JPY 174.53 175.23 182.51
AUD 16,288 16,353 16,882
SGD 19,627 19,706 20,245
THB 759 762 796
CAD 18,237 18,310 18,820
NZD 15,025 15,531
KRW 17.70 19.51
Cập nhật: 20/05/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16366 16466 17032
CAD 18251 18351 18905
CHF 30739 30769 31654
CNY 0 3562.2 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28903 29003 29776
GBP 34248 34298 35409
HKD 0 3270 0
JPY 175.63 176.63 183.14
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15133 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19672 19802 20523
THB 0 729.3 0
TWD 0 845 0
XAU 11700000 11700000 11930000
XBJ 10000000 10000000 11930000
Cập nhật: 20/05/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,760 25,810 26,140
USD20 25,760 25,810 26,140
USD1 25,760 25,810 26,140
AUD 16,355 16,505 17,581
EUR 28,838 28,988 30,165
CAD 18,188 18,288 19,603
SGD 19,715 19,865 20,332
JPY 176.06 177.56 182.26
GBP 34,250 34,400 35,190
XAU 11,678,000 0 11,932,000
CNY 0 3,445 0
THB 0 763 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/05/2025 07:00