Bốn câu hỏi về các thị trường toàn cầu năm 2021

11:12 | 02/01/2021

136 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Khi nền kinh tế toàn cầu do tác động của đại dịch Covid-19 đã rơi vào suy thoái nghiêm trọng trong năm 2020, các thị trường toàn cầu đã trở nên nhạy cảm hơn, với những biến động mạnh từ cả các tài sản rủi ro, đặc biệt là cổ phiếu, đến các tài sản an toàn, như vàng.

Việc vắc xin ngừa Covid-19 tiếp tục được phát triển và phân phối trong năm 2021 có thể giúp làm giảm đi những lo ngại trên các thị trường toàn cầu, nhưng những yếu tố không chắc chắn vẫn còn.

Dù kinh tế toàn cầu có thể sẽ phục hồi, tác động của đại dịch không nên bị xem nhẹ và thương mại toàn cầu đang được định hình lại bởi các rủi ro địa chính trị và việc chuyển giao quyền lực ở các nền kinh tế lớn. Những yếu tố này đang gây lo ngại cho các nhà đầu tư về giá cả bốn loại tài sản chính là vàng, USD, dầu thô và cổ phiếu.

Giá vàng có được giữ vững?

Vàng luôn là tài sản an toàn với các nhà đầu tư. Trong năm 2020, những lo ngại về đồng USD đã âm ỉ do sự kết hợp của các yếu tố là đại dịch, sự giảm sút về kinh tế, rủi ro địa chính trị gia tăng và nợ quốc gia của Mỹ tăng. Khi những yếu tố bất lợi xuất hiện và tồn tại kéo dài, cùng với chính sách tiền tệ nới lỏng mà các nước thực hiện, ngày càng nhiều nhà đầu tư sẽ đổ tiền vào các tài sản an toàn như vàng và do đó sẽ đẩy giá kim loại quý này lên.

Giá vàng tăng mạnh trong năm 2020. Sau khi đại dịch bùng phát, những rủi ro về thanh khoản một lần nữa lại nổi lên trên thị trường tài chính quốc tế và giá kim loại quý này đã giảm mạnh sau khi tăng mạnh vào đầu năm. Khi lòng tin của thị trường được cải thiện, giá vàng bắt đầu phục hồi vào tháng 3 và chạm mức kỷ lục 2.075 USD/ounce vào tháng 8 trước khi giảm xuống sau đó. Vào ngày 31-12, giá vàng kỳ hạn tại Sàn giao dịch hàng hóa New York chốt phiên ở mức 1.895,1 USD/ounce, tăng 24% trong cả năm.

Các tổ chức đã đưa ra các dự báo lạc quan về giá vàng trong năm 2021, trước những yếu tố bất trắc liên quan đến đà phục hồi kinh tế toàn cầu và những lo ngại về lạm phát. Bên cạnh đó, nhu cầu tăng trở lại của các nền kinh tế mới nổi và sự gia tăng nợ trên toàn cầu là những yếu tố cũng đang hỗ trợ giá vàng. Citibank gần đây đã dự báo giá vàng sẽ vọt lên mức 2.200 USD/ounce trong 3 tháng và lên 2.400 USD/ounce trong 6-12 tháng. Goldman Sachs cũng nhận định nhu cầu vàng sẽ mạnh lên ở các thị trường mới nổi khi nhu cầu của Trung Quốc và Ấn Độ có những dấu hiệu trở lại bình thường.

Đồng USD sẽ tiếp tục xuống giá?

Bốn câu hỏi về các thị trường toàn cầu năm 2021
Đồng USD được dự báo sẽ yếu đi. Ảnh: TTXVN

Hồi tháng 3-2020, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã công bố chương trình nới lỏng định lượng không thời hạn và không hạn chế, hạ lãi suất tại hai cuộc họp với mức hạ tổng cộng 150 điểm cơ bản, cho thấy nỗ lực của chính phủ nước này trong việc kích thích nền kinh tế chịu tác động của đại dịch. Những động thái quyết liệt như vậy đã khiến đồng USD lao dốc.

Khi các nhà lãnh đạo Liên minh châu Âu (EU) đạt thỏa thuận về quỹ phục hồi từ đại dịch trị giá 750 tỷ euro (915 tỷ USD) hồi tháng 7, việc tăng cường hội nhập tài chính ở EU đã thúc đẩy lòng tin của các nhà đầu tư vào khối này và đồng euro. Do đó, trong khi đồng USD giảm, đồng euro lại mạnh lên trong bối cảnh sự lạc quan lớn hơn, đảo ngược giai đoạn xuống giá kéo dài của đồng tiền chung này.

Người phụ trách chiến lược thị trường tại Cambridge Global Payments, Karl Schamotta, cho rằng thị trường đã chuyển hướng sang đồng euro với giả định Khu vực sử dụng đồng euro (Eurozone) sẽ chịu ít tác động về kinh tế hơn.

Ngân hàng ANZ của Australia dự báo tỷ giá euro và USD sẽ tăng lên 1,3 USD đổi 1 euro trong trung hạn, với mức dự báo vào cuối năm là 1,28 USD đổi 1 euro.

Ngân hàng HSBC cho rằng tỷ giá của đồng euro tăng cho thấy sức hấp dẫn của tài sản rủi ro và việc đồng USD xuống giá. J.P. Morgan Asset Management nhận định sức hấp dẫn của các tài sản tài chính của Mỹ bắt đầu giảm đi và trong 10-15 năm tới, đồng USD sẽ vẫn yếu.

Giá dầu thô sẽ cao đến mức nào?

Giá dầu thô trong năm 2020 đã phục hồi theo hình chữ V.

Giá dầu của Mỹ giảm gần 1/3 vào ngày 9-3, mức giảm mạnh nhất kể từ Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, khi giữa Saudi Arabia và Nga nổ ra cuộc chiến giá cả. Và một lần nữa, vào ngày 20-4, giá dầu giảm xuống dưới mức 0 lần đầu tiên, xuống tới -37,63 USD/thùng tại New York, với tình trạng dư cung do đại dịch đe dọa các cơ sở dự trữ.

Nhu cầu phục hồi và giá dầu tăng trong nửa cuối năm 2020 khi thị trường dầu thô quốc tế thắt chặt nguồn cung và các hoạt động kinh doanh đã được nối lại ở nhiều nền kinh tế. Ngày 31-12, giá dầu West Texas Intermediate (WTI) giao tháng 2-2021 chốt phiên ở mức 48,52 USD/thùng tại Sàn giao dịch hàng hóa New York, giảm 20,5% so với năm ngoái. Trong cùng phiên, giá dầu Brent giao tháng 3 ở mức 51,8 USD/thùng tại Sàn London ICE Futures, mất 21,5% trong năm qua.

Nhiều nhận định cho rằng việc tiêm chủng vắc xin ngừa Covid-19 sẽ thúc đẩy sự lạc quan về đà phục hồi kinh tế của toàn cầu cũng như nhu cầu và giá dầu.

Ngân hàng Barclays của Anh cho rằng khả năng có vắc xin hiệu quả cao trong ngắn hạn sẽ là cú hích đối với nhu cầu dầu mỏ, khi có thể đảm bảo một sự phục hồi kinh tế bền vững. Ngân hàng này nhận định giá dầu Brent sẽ ở mức trung bình 53 USD/thùng và giá dầu WTI sẽ ở mức 50 USD/thùng trong năm 2021.

Trong dự báo về lĩnh vực dầu khí, Deloitte nhận định nhu cầu dầu năm 2021 sẽ phục hồi mạnh nhưng vẫn chưa quay về mức trước đại dịch.

Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho rằng dự trữ dầu toàn cầu cao và công suất sản xuất dư thừa sẽ vẫn cản trở giá dầu tăng trong phần lớn năm 2021, nhận định giá dầu Brent sẽ ở mức trung bình 47 USD/thùng trong nửa đầu năm 2021 và tăng lên 50 USD/thùng trong quý IV.

Giá cổ phiếu sẽ hạ nhiệt?

Phố Wall trên đà tăng giá mạnh trong năm 2020. Thị trường chứng khoán Mỹ đã phản ứng trước những yếu tố khó dự báo với việc giảm mạnh, phải dừng giao dịch bốn lần trong tháng 3.

Tuy nhiên, trong tháng 11-2020, chỉ số Dow Jones vượt ngưỡng 30.000 điểm lần đầu tiên, tăng 11,8%, đánh dấu tháng tăng mạnh nhất trong ba thập kỷ.

Người phụ trách một chuyên mục trên tờ Wall Street Journal, James Mackintosh, cho rằng điều quan trọng trong năm 2020 không phải là lợi nhuận doanh nghiệp mà là tốc độ và quy mô phản ứng của các ngân hàng trung ương và các chính phủ, cùng với việc thị trường chứng khoán Mỹ đã không còn chung nhịp với nền kinh tế, khi nền kinh tế càng yếu hơn, lợi nhuận càng giảm đi, giá cổ phiếu lại càng tăng mạnh, ít nhất là tại Mỹ.

Theo Credit Suisse, các thị trường chứng khoán châu Á đã sẵn sàng vượt qua các thị trường toàn cầu trong năm 2021, khi một siêu chu kỳ lợi nhuận được cho là sẽ diễn ra trong khu vực. Các nhà phân tích Nhật Bản cho rằng thị trường chứng khoán nước này đã tăng mạnh kể từ đầu năm 2020, tăng hơn 11% và có thể vẫn duy trì động lực trong năm 2021.

Các thị trường chứng khoán châu Âu dự kiến sẽ tiếp tục tăng. Goldman Sachs dự báo chỉ số FTSE 100 của Anh sẽ tăng lên 7.200 điểm vào cuối năm 2021. Trong khi đó, Deutsche Bank dự đoán chỉ số DAX của Đức sẽ chạm mốc 14.000 điểm và chỉ số Euro Stoxx 50 của Eurozone sẽ đạt ngưỡng 3.500 điểm.

Theo Báo Hànộimới

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,700 120,700
AVPL/SJC HCM 118,700 120,700
AVPL/SJC ĐN 118,700 120,700
Nguyên liệu 9999 - HN 10,820 ▼120K 11,240
Nguyên liệu 999 - HN 10,810 ▼120K 11,230
Cập nhật: 02/07/2025 18:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.500 117.000
TPHCM - SJC 118.700 120.700
Hà Nội - PNJ 114.500 117.000
Hà Nội - SJC 118.700 120.700
Đà Nẵng - PNJ 114.500 117.000
Đà Nẵng - SJC 118.700 120.700
Miền Tây - PNJ 114.500 117.000
Miền Tây - SJC 118.700 120.700
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.500 117.000
Giá vàng nữ trang - SJC 118.700 120.700
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.500
Giá vàng nữ trang - SJC 118.700 120.700
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.500 117.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.500 117.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.900 116.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.780 116.280
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.070 115.570
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.840 115.340
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.950 87.450
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.740 68.240
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.070 48.570
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.220 106.720
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.650 71.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.310 75.810
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.800 79.300
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.300 43.800
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.060 38.560
Cập nhật: 02/07/2025 18:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,230 11,680
Trang sức 99.9 11,220 11,670
NL 99.99 10,815 ▼55K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,815 ▼55K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,440 11,740
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,440 11,740
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,440 11,740
Miếng SJC Thái Bình 11,870 12,070
Miếng SJC Nghệ An 11,870 12,070
Miếng SJC Hà Nội 11,870 12,070
Cập nhật: 02/07/2025 18:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16638 16907 17489
CAD 18631 18909 19526
CHF 32347 32730 33380
CNY 0 3570 3690
EUR 30167 30441 31468
GBP 35015 35409 36346
HKD 0 3202 3405
JPY 174 178 185
KRW 0 18 20
NZD 0 15575 16164
SGD 19995 20278 20805
THB 722 785 838
USD (1,2) 25900 0 0
USD (5,10,20) 25940 0 0
USD (50,100) 25969 26003 26323
Cập nhật: 02/07/2025 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,963 25,963 26,323
USD(1-2-5) 24,924 - -
USD(10-20) 24,924 - -
GBP 35,473 35,569 36,466
HKD 3,271 3,281 3,380
CHF 32,615 32,717 33,523
JPY 178.58 178.91 186.49
THB 768.18 777.67 831.99
AUD 16,926 16,987 17,458
CAD 18,839 18,900 19,457
SGD 20,138 20,201 20,881
SEK - 2,704 2,800
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,059 4,200
NOK - 2,545 2,636
CNY - 3,600 3,697
RUB - - -
NZD 15,585 15,730 16,182
KRW 17.76 18.52 19.99
EUR 30,375 30,399 31,636
TWD 813.11 - 983.69
MYR 5,790.17 - 6,535.93
SAR - 6,854.37 7,214.06
KWD - 83,406 88,691
XAU - - -
Cập nhật: 02/07/2025 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,980 25,980 26,320
EUR 30,209 30,330 31,459
GBP 35,252 35,394 36,391
HKD 3,266 3,279 3,384
CHF 32,406 32,536 33,469
JPY 177.65 178.36 185.80
AUD 16,845 16,913 17,455
SGD 20,183 20,264 20,818
THB 785 788 823
CAD 18,818 18,894 19,424
NZD 15,659 16,170
KRW 18.43 20.25
Cập nhật: 02/07/2025 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26000 26000 26320
AUD 16827 16927 17495
CAD 18813 18913 19469
CHF 32605 32635 33522
CNY 0 3614.3 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30464 30564 31339
GBP 35344 35394 36515
HKD 0 3330 0
JPY 178.13 179.13 185.64
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15692 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20163 20293 21015
THB 0 751.9 0
TWD 0 900 0
XAU 11600000 11600000 12070000
XBJ 10800000 10800000 12070000
Cập nhật: 02/07/2025 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,987 26,037 26,275
USD20 25,987 26,037 26,275
USD1 25,987 26,037 26,275
AUD 16,898 17,048 18,110
EUR 30,557 30,707 31,872
CAD 18,763 18,863 20,176
SGD 20,243 20,393 20,862
JPY 179.22 180.72 185.3
GBP 35,540 35,690 36,456
XAU 11,868,000 0 12,072,000
CNY 0 3,500 0
THB 0 787 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 02/07/2025 18:45