Bốn bất đồng của Mỹ - Trung trên bàn đàm phán

06:30 | 09/09/2019

447 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Mỹ cho rằng Trung Quốc mở cửa quá ít, không xứng với sức mạnh của một nền kinh tế hướng đến dẫn đầu thế giới.

Khi đàm phán thương mại Mỹ - Trung đổ vỡ hồi tháng 5/2019, Mỹ đỗ lỗi Trung Quốc rút lại các cam kết. Ngược lại, nước này khẳng định trong Sách trắng rằng Mỹ đưa ra những yêu cầu vô lý và lập luận họ đã đạt được tiến bộ đáng chú ý trong việc cải thiện môi trường kinh doanh.

Trước đó, từ Hội nghị lần thứ 3 của Đại hội đảng lần thứ 18 vào tháng 11/2013, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã vạch ra kế hoạch mở rộng các quyền tự do kinh tế đáng kể, ít nhất là tính từ những năm 1990.

Về sau, trong bài phát biểu vào tháng 1/2017 tại Davos, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình lần nữa đề cập về kỷ nguyên cải cách mới. Một năm sau, tại cùng địa điểm, cố vấn kinh tế hàng đầu của ông, Phó thủ tướng Lưu Hạc cho biết Trung Quốc sẽ khiến thế giới ngạc nhiên với những cải cách.

Tuy nhiên, hơn một năm rưỡi kể từ khi ông Lưu Hạc nói, không có gì bất ngờ xảy ra. Trung Quốc phần lớn được phương Tây nhìn nhận là quá ít mở cửa, không xứng với sức mạnh của một nền kinh tế hướng đến dẫn đầu thế giới, dù nước này tiếp tục cam kết sẽ làm nhiều hơn nữa.

Bốn bất đồng của Mỹ - Trung trên bàn đàm phán
Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gặp gỡ vào ngày 29/6 tại Osaka, Nhật Bản. Ảnh: AP

Xuất phát từ đó, giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn còn tồn tại 4 bất đồng lớn khi hai nước tiếp tục ngồi vào bàn đám phán vào tháng này và tháng tới.

Tiếp cận thị trường

40% các công ty châu Âu nói Trung Quốc đã cải thiện khả năng tiếp cận thị trường, theo khảo sát niềm tin kinh doanh của Phòng Thương mại châu Âu tại Trung Quốc (EuroCham) công bố vào tháng 5/2019.

Bước tiến lớn nhất là sửa đổi danh sách theo hướng giảm các lĩnh vực bị hạn chế hoặc bị cấm nhà đầu tư nước ngoài, cũng như công bố các mốc thời điểm loại bỏ giới hạn sở hữu trong ngành dịch vụ tài chính và ôtô.

Hồi tháng 7, Phó thủ tướng Lý Khắc Cường cho biết nước này sẽ đưa ra kế hoạch đến 2020 xóa bỏ giới hạn sở hữu nước ngoài đối với các công ty tài chính, từ chứng khoán đến bảo hiểm nhân thọ trong tương lai.

Tuy nhiên, Phòng Thương mại Mỹ (AmCham) tại Trung Quốc nói trong báo cáo gần đây rằng các hạn chế tiếp cận thị trường vẫn ảnh hưởng đến hơn một nửa số thành viên. Những thách thức đặc biệt gay gắt trong lĩnh vực công nghệ và R&D, với hơn 75% thành viên xác nhận.

Sở hữu trí tuệ

Phó chủ tịch cấp cao Hội đồng doanh nghiệp Mỹ tại Trung Quốc Jacob Parker nhận xét động thái sửa đổi Luật Thương hiệu vào tháng 4, với việc tăng mức bồi thường cho các hành vi xâm phạm đã khiến các công ty nước ngoài quan tâm. Cơ chế kháng cáo sở hữu trí tuệ được giới thiệu ở cấp Tòa án Nhân dân Tối cao cũng rất tích cực.

Nhiều công ty Mỹ thừa nhận nỗ lực của Trung Quốc trong cải thiện luật pháp về bảo vệ sở hữu trí tuệ và việc thực thi những năm gần đây, đặc biệt là liên quan đến bảo vệ thương hiệu. Tuy nhiên, AmCham cho rằng chúng vẫn ít.

Trung Quốc được xếp hạng 52 trên 125 quốc gia vào năm ngoái theo Chỉ số quyền sở hữu quốc tế, không thay đổi so với năm 2017 nhưng tăng 3 bậc so năm 2016. Thực tế, số tiền mà các công ty Trung Quốc thanh toán khi sử dụng tài sản trí tuệ nước ngoài đã tăng vọt thập niên gần đây, từ mức 8,2 tỷ USD năm 2007 lên 28,7 tỷ USD vào năm 2017.

Ép buộc chuyển giao công nghệ

Chính phủ Trung Quốc nói các cáo buộc họ ép công ty nước ngoài chuyển giao công nghệ là "không có cơ sở". Tuy nhiên, một loạt các thay đổi pháp lý đã nhanh chóng xuất hiện để giúp đạt được thỏa thuận thương mại với Mỹ.

Luật đầu tư nước ngoài mới dự kiến có hiệu lực vào năm 2020 cấm các cơ quan hành chính ép buộc chuyển giao công nghệ. Luật này cũng bao gồm khả năng phạt hình sự đối với các quan chức tiết lộ hoặc rò rỉ bí mật thương mại, lượm lặt từ các quyết định phê duyệt.

Luật được thông qua hồi tháng 3/2019, chỉ sau vài tháng được trình trong khi bình thường sẽ mất nhiều năm. Luật Cấp phép Hành chính sửa đổi được thông qua vào tháng 4/2019 cũng cấm các quan chức tiết lộ bí mật thương mại.

Tuy nhiên, những điều này vẫn chưa đủ cho các quan chức Mỹ, những người nói rằng Trung Quốc đã cam kết thay đổi trước đó nhưng không tuân theo. EuroCham thì nhận xét luật đầu tư nước ngoài mới có chứa các thuật ngữ mơ hồ, tạo ra sự không chắc chắn và tổn hại niềm tin kinh doanh.

Chính sách công nghiệp

Đây được cho là vấn đề nhức nhối nhất vì tham vọng bắt kịp và thách thức thế giới trong các ngành công nghệ cao, thông qua các chính sách công nghiệp do nhà nước lãnh đạo và tài trợ. Do vậy, gần đây, Trung Quốc có nhiều động thái để trấn an Mỹ và thế giới.

Trong bài phát biểu hồi tháng 3/2019, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường hứa hẹn về "cạnh tranh trung lập", nơi công ty nhà nước và tư nhân sẽ được đối xử trên "một nền tảng bình đẳng" và khả năng tiếp cận thị trường như nhau.

Các nhà hoạch định chính sách nước này cũng đang miệt mài với cách họ trình bày kế hoạch của mình với thế giới. Do đó, chương trình "Made in China 2025", một kế hoạch trợ cấp nhằm đưa Trung Quốc thành cường quốc toàn cầu về các công nghệ tiên tiến làm thất vọng chính quyền Trump, đã không được đề cập trước công chúng.

Bloomberg cho rằng, đến nay vẫn có rất ít bằng chứng cho thấy Trung Quốc đã thay đổi cách tiếp cận theo hướng trợ cấp công nghiệp. Ngược lại, ông Tập Cận Bình còn thúc giục tăng gấp đôi nỗ lực tự lực.

"Với sự phát triển to lớn của Trung Quốc về quy mô, khả năng tiếp cận và khả năng cạnh tranh toàn cầu, họ phải ngày càng đạt được độ mở của nền kinh tế như các nền kinh tế tiên tiến khác. Điều đó chỉ đơn giản là đã không xảy ra", Daniel Rosen - Chuyên gia kinh tế nghiên cứu về Trung Quốc, đối tác của Rhodium Group, nhận xét.

Theo VNE

Mỹ hủy đàm phán với Taliban sau vụ đánh bom ở Afghanistan
Giá vàng hôm nay 8/9: Tin xấu dồn dập, giá vàng giảm mạnh
Động thái "xuống nước" của Trung Quốc trước thềm đàm phán thương chiến với Mỹ
Mỹ nói đàm phán với Trung Quốc như Chiến tranh Lạnh, có thể kéo dài 10 năm

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 ▼5000K 114,000 ▼6000K
AVPL/SJC HCM 112,000 ▼5000K 114,000 ▼6000K
AVPL/SJC ĐN 112,000 ▼5000K 114,000 ▼6000K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 ▼550K 11,260 ▼500K
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 ▼550K 11,250 ▼500K
Cập nhật: 19/04/2025 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 ▼4500K 113.500 ▼3500K
TPHCM - SJC 112.000 ▼5000K 114.000 ▼6000K
Hà Nội - PNJ 109.500 ▼4500K 113.500 ▼3500K
Hà Nội - SJC 112.000 ▼5000K 114.000 ▼6000K
Đà Nẵng - PNJ 109.500 ▼4500K 113.500 ▼3500K
Đà Nẵng - SJC 112.000 ▼5000K 114.000 ▼6000K
Miền Tây - PNJ 109.500 ▼4500K 113.500 ▼3500K
Miền Tây - SJC 112.000 ▼5000K 114.000 ▼6000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 ▼4500K 113.500 ▼3500K
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 ▼5000K 114.000 ▼6000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500 ▼4500K
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 ▼5000K 114.000 ▼6000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500 ▼4500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 ▼4500K 113.500 ▼3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 ▼4500K 113.500 ▼3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 ▼4000K 112.000 ▼4000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 ▼3990K 111.890 ▼3990K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 ▼3970K 111.200 ▼3970K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 ▼3960K 110.980 ▼3960K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 ▼3000K 84.150 ▼3000K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 ▼2340K 65.670 ▼2340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 ▼1670K 46.740 ▼1670K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 ▼3670K 102.690 ▼3670K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 ▼2440K 68.470 ▼2440K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 ▼2600K 72.950 ▼2600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 ▼2720K 76.310 ▼2720K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 ▼1500K 42.150 ▼1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 ▼1320K 37.110 ▼1320K
Cập nhật: 19/04/2025 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,770 ▼550K 11,340 ▼500K
Trang sức 99.9 10,760 ▼550K 11,330 ▼500K
NL 99.99 10,770 ▼550K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,770 ▼550K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,000 ▼550K 11,350 ▼500K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,000 ▼550K 11,350 ▼500K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,000 ▼550K 11,350 ▼500K
Miếng SJC Thái Bình 11,200 ▼500K 11,400 ▼600K
Miếng SJC Nghệ An 11,200 ▼500K 11,400 ▼600K
Miếng SJC Hà Nội 11,200 ▼500K 11,400 ▼600K
Cập nhật: 19/04/2025 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 19/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 19/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 19/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 19/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 19/04/2025 21:00