Tăng trưởng xanh - những vấn đề đặt ra:

Bài 5: Cần xây dựng tổng thể “chính sách thuế xanh” để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển xanh

10:00 | 12/08/2024

1,836 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Theo Tổng giám đốc Công ty TNHH kế toán và tư vấn thuế Trọng Tín Nguyễn Văn Được, cần hoàn thiện khung pháp lý và tạo ra cơ chế rõ ràng về kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn để thực thi các chính sách thuế xanh. Từ đó xây dựng tổng thể các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đặc thù cho lĩnh vực này.

Thời gian qua, chính sách thuế xanh đã được xây dựng, ban hành và triển khai. Một mặt chính sách này hạn chế hành vi sản xuất và tiêu dùng sản phẩm, hàng hóa gây ô nhiễm môi trường, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác thúc đẩy doanh nghiệp hướng tới sản xuất xanh, đầu tư xanh và người dân chuyển hướng sang tiêu dùng xanh (chủ yếu thông qua các ưu đãi thuế). Tuy nhiên, những hạn chế, vướng mắc vẫn tồn tại và phát sinh.

Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, PetroTimes có cuộc trao đổi với Chuyên gia về thuế - ông Nguyễn Văn Được, Tổng giám đốc Công ty TNHH kế toán và tư vấn thuế Trọng Tín.

Bài 5: Cần xây dựng tổng thể “chính sách thuế xanh” để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển xanh
Chuyên gia Nguyễn Văn Được, Tổng giám đốc Công ty TNHH kế toán và tư vấn thuế Trọng Tín

PV: Thưa ông, Việt Nam đã có những chính sách thuế như thế nào để hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất xanh và giảm lượng phát thải CO2?

Ông Nguyễn Văn Được: Việt Nam hiện vẫn chưa có các chính sách thuế tổng thể và mang tính chiến lược đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn, đặc biệt là trong sản xuất xanh và giảm phát thải CO2. Dù chưa có chính sách thuế rõ ràng, Chính phủ đã triển khai một số ưu đãi và hỗ trợ đầu tư nhằm khuyến khích lĩnh vực này.

Cụ thể, đối với thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), theo Luật Thuế TNDN hiện hành, các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch và các hoạt động bảo vệ môi trường sẽ được hưởng mức thuế suất ưu đãi 10% trong vòng 15 năm. Ngoài ra, họ còn được miễn thuế tối đa 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong tối đa 9 năm.

Về thuế xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, xử lý môi trường và sản xuất sạch có thể được miễn hoặc giảm thuế đối với các máy móc, thiết bị, linh kiện phục vụ cho dự án đầu tư theo quy định của Luật Thuế xuất nhập khẩu.

Liên quan đến thuế giá trị gia tăng (GTGT), thu nhập từ chuyển nhượng phát thải không phải kê khai nộp thuế GTGT, theo quy định của Thông tư 219/2013/TT-BTC.

Thêm vào đó, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành ưu đãi đối với xe ô tô điện và ô tô chạy bằng năng lượng sinh học với mức thuế thấp hơn so với sản phẩm cùng loại sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Cụ thể, mức thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện hoặc năng lượng sinh học chỉ bằng 50 - 70% mức thuế của các loại xe chạy bằng nhiên liệu hóa thạch, tùy theo từng loại.

Về thuế tài nguyên môi trường, các doanh nghiệp tham gia hoạt động bảo vệ môi trường và sử dụng tài nguyên hiệu quả cũng có thể được giảm thuế theo quy định của Luật Thuế bảo vệ môi trường.

Bên cạnh các ưu đãi thuế, theo Nghị định 40/2019/NĐ-CP, các doanh nghiệp có thể được hỗ trợ tài chính từ Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam cho các dự án đầu tư vào công nghệ sạch, năng lượng tái tạo và giảm phát thải CO2. Hơn nữa, doanh nghiệp cũng có thể hưởng các chính sách tài chính, tín dụng xanh như trái phiếu xanh, cổ phiếu phát triển bền vững, nhằm tạo lợi thế cạnh tranh và duy trì sự ổn định trong giá cổ phiếu.

Như vậy, về cơ bản Việt Nam vẫn chưa có một chính sách thuế ưu đãi và hỗ trợ rõ ràng và trực tiếp cho kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn, nhưng các chính sách ưu đãi và hỗ trợ hiện hành đã bước đầu hỗ trợ, ưu đãi cho lĩnh vực này hình thành và phát triển. Do vậy, cần có những cải cách và chính sách mạnh mẽ hơn trong tương lai để thúc đẩy kinh tế xanh và giảm phát thải CO2.

PV: Ông đánh giá thế nào về hiệu quả của những chính sách thuế này?

Ông Nguyễn Văn Được: Việt Nam chưa có chính sách thuế tổng thể và toàn diện về ưu đãi hỗ trợ cho sản xuất xanh và giảm phát thải CO2. Điều này dẫn đến hiệu quả của các chính sách hiện tại chưa đảm bảo tính phổ quát và chưa đủ mạnh để thúc đẩy kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn theo lộ trình mà Chính phủ đã đề ra.

Tuy nhiên, cũng cần đánh giá tích cực về những hiệu quả mà các chính sách hiện hành này đã phát huy trong thời gian qua, có thể kể đến như:

Thứ nhất, các chính sách này đã kích thích và thu hút đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn FDI vào các lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận không cao hoặc yêu cầu chi phí đầu tư lớn cùng trình độ khoa học kỹ thuật cao.

Thứ hai, các chính sách đã góp phần xây dựng môi trường đầu tư và hệ sinh thái kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn theo định hướng của Chính phủ giai đoạn 2020-2050.

Thứ ba, các ưu đãi kịp thời đã hỗ trợ các dự án đầu tư có được nguồn tài chính, từ đó tác động tích cực đến nền kinh tế, cải thiện và bảo vệ môi trường, bao gồm giảm khí thải CO2 và các chỉ tiêu hiệu ứng nhà kính.

Cuối cùng, các chính sách cũng đã thay đổi nhận thức và văn hóa của doanh nghiệp, doanh nhân, và người tiêu dùng trong vấn đề bảo vệ môi trường thông qua các ưu đãi thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt và các hình thức hỗ trợ khác.

PV: Vậy theo ông, việc triển khai chính sách thuế xanh tại Việt Nam hiện đang gặp phải những thách thức, khó khăn nào?

Ông Nguyễn Văn Được: Tôi cho rằng, một trong những thách thức lớn nhất là thiếu khung pháp lý và cơ chế rõ ràng để thực thi các chính sách thuế xanh. Hiện nay, khung pháp lý đối với kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn chưa thực sự rõ ràng tại Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 và Nghị định 08/2022/NĐ-CP chưa ban hành cụ thể “Danh mục phân loại xanh” để từ đó có thể ban hành các chính sách ưu đãi, hỗ trợ phù hợp cho từng lĩnh vực cụ thể cũng như giúp nhà đầu tư và các bên có cơ sở tham chiếu thực hiện.

Bên cạnh đó, chính sách ưu đãi và hỗ trợ đối với hầu hết các lĩnh vực được xây dựng trên nền tảng ưu đãi và hỗ trợ “dự án đầu tư” theo pháp luật về đầu tư. Tuy nhiên, trong thực tế kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn cần phải có đồng bộ các giải pháp ưu đãi, hỗ trợ tại nhiều khâu của quá trình từ sản xuất đến lưu thông sản phẩm, dịch vụ cũng như quá trình xử lý hậu sản xuất, hậu tiêu dùng. Đặc biệt, các chính sách ưu đãi, hỗ trợ hiện nay chưa được luật hóa cụ thể, vẫn còn chung chung và chưa đi vào thực chất với mức ưu đãi, hỗ trợ còn khá khiêm tốn, chưa tạo được động lực và cú hích để phát triển so với các quốc gia trong khu vực.

Bên cạnh đó, thách thức khó khăn do chưa có hệ sinh thái, thị trường đối với kinh tế xanh cũng như nguồn nhân lực tại các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức quản lý, vận hành, thực thi, đánh giá và giám sát kinh tế xanh cũng đang là bài toán lớn cho Việt Nam.

Ngoài ra, Việt Nam là một trong 142 quốc gia tham gia chính sách “Thuế tối thiểu toàn cầu” từ ngày 1/1/2024, khi đó các chính sách ưu đãi về thuế TNDN sẽ không còn là ưu thế thu hút đầu tư khối ngoại (FDI) đặc biệt là các ông lớn về vốn và công nghệ. Vì vậy, Việt Nam gặp thách thức lớn từ xây dựng chính sách ưu đãi thuế TNDN và buộc phải chuyển sang quan tâm đến chính sách ưu đãi và hỗ trợ khác để thu hút đầu tư.

Cuối cùng, khi thực hiện kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn sẽ gặp phải các vấn đề về chi phí đầu tư, chi phí vận hành và chi phí thực hiện, kiểm tra, đánh giá, giám sát có xu thế tăng lên trong khi lợi ích thu được trong dài hạn, tác động gián tiếp đến doanh nghiệp và nhà đầu tư. Đặc biệt là văn hóa, thói quen cũng như ý thức và trách nhiệm của doanh nghiệp, người dân còn hạn chế về vấn đề này.

PV: Vậy theo ông, cần có những giải pháp nào để khắc phục những thách thức này?

Ông Nguyễn Văn Được: Cá nhân tôi cho rằng, để khắc phục những thách thức này, cần có một chiến lược tổng thể và dài hạn. Trước tiên, cần hoàn thiện khung pháp lý và tạo ra cơ chế rõ ràng về kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn để thực thi các chính sách thuế xanh. Từ đó xây dựng tổng thể các chính sách thuế ưu đãi, hỗ trợ đặc thù cho lĩnh vực này. Theo đó, cần sớm ban hành “Danh mục phân loại xanh” để từ đó có cơ sở xây dựng chính sách ưu đãi và hỗ trợ phù hợp. Chính sách ưu đãi, hỗ trợ không chỉ dừng lại trong lĩnh vực đầu tư mà cần mở rộng đối tượng ưu đãi, hỗ trợ trong lĩnh vực tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ của nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn với mức ưu đãi và hỗ trợ đủ lớn để tạo cú hích mạnh cho lĩnh vực này.

Ngoài ra, cần xây dựng các chính sách ưu đãi và hỗ trợ về nguồn nhân lực làm việc tại các doanh nghiệp cũng như nguồn nhân lực vận hành, kiểm tra, giám sát, quản lý thị trường đối với kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn cũng như xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng, môi trường và thị trường hoạt động tiệm cận với khu vực và quốc tế.

Mặt khác, thực hiện và đẩy mạnh các chính sách ưu đãi, hỗ trợ khác để bù đắp lợi thế mà ưu đãi thuế TNDN mất đi do phải áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu. Đặc biệt, cần có các chính sách hỗ trợ thiết thực và kịp thời cho sản xuất, tiêu dùng đối với các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thuộc “Danh mục phân loại xanh” như các quốc gia đã và đang thực hiện với mức hỗ trợ kịp thời, thiết thực trực tiếp cho nhà đầu tư và người tiêu dùng.

Cuối cùng, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền và xây dựng chính sách tạo sự liên kết 4 nhà: Nhà nước, nhà băng (ngân hàng), nhà đầu tư, nhà khoa học và nhà nông (người dân) cùng tham gia tích cực đối với lĩnh vực này trên cơ sở học tập kinh nghiệm quốc tế về các vấn đề ưu đãi và hỗ trợ kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

Bài 5: Cần xây dựng tổng thể “chính sách thuế xanh” để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển xanh
Hoàn thiện “chính sách thuế xanh” sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp sản xuất xanh tại Việt Nam xuất khẩu vào thị trường khó tính (Ảnh minh họa)

PV: Nếu Việt Nam hoàn thiệnchính sách thuế xanh, điều này có tác động như thế nào đến doanh nghiệp sản xuất, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu, thưa ông?

Ông Nguyễn Văn Được: Theo tôi, ngoài các tác động tích cực về mặt quản lý vĩ mô thì chính sách thuế xanh còn tác động tích cực đến doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu. Các doanh nghiệp sản xuất xanh sẽ có lợi thế cạnh tranh khi được hưởng các ưu đãi thuế. Điều này giúp họ giảm chi phí sản xuất và tăng lợi nhuận, đồng thời khuyến khích họ đầu tư vào công nghệ sạch và quy trình sản xuất thân thiện với môi trường.

Bên cạnh đó, chính sách thuế xanh có thể khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ và quy trình sản xuất hiện đại hơn, giúp giảm lượng phát thải CO2. Đồng thời, nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như cải thiện thương hiệu đối với các doanh nghiệp Việt trên thị trường khu vực và quốc tế, phù hợp với xu thế phát triển xanh tại các thị trường “khó tính” đòi hỏi tiêu chuẩn về môi trường nghiêm ngặt như EU, Mỹ, Nhật Bản,… từ đó mở rộng quy mô thị trường, thúc đẩy đầu tư, sản xuất, đặc biệt là xuất khẩu.

Ngoài ra, với xu thế phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn trên thế giới hiện nay sẽ tạo thêm nhiều cơ hội cho nhà sản xuất, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện kinh tế xanh, ví dụ như: Được bao tiêu sản phẩm, sản phẩm được định giá và giao dịch với hàm lượng giá trị cao hơn (giá bán cao hơn), được bảo hộ và được bảo vệ lợi ích giá trị gia tăng cũng như giá trị thặng dư tăng thêm đối với người sản xuất qua các khâu lưu thông, tùy theo từng chính sách và từng thị trường khác nhau…

Cuối cùng, tạo động lực và thuận lợi thu hút đầu tư, từ đó doanh nghiệp Việt có cơ hội tiếp cận nguồn vốn, khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, điều hành và phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn của các quốc gia trên thế giới, giúp Việt Nam sớm hoàn thành mục tiêu đã đề ra vào năm 2050.

Như vậy, việc xây dựng tổng thể “chính sách thuế xanh” không chỉ tạo ra những cơ hội cho doanh nghiệp sản xuất xanh tại Việt Nam mà còn giúp họ tiếp cận và gia tăng xuất khẩu vào các thị trường khó tính. Chính sách thuế xanh không chỉ giúp doanh nghiệp trong ngắn hạn mà còn hỗ trợ họ trong quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh bền vững hơn. Điều này không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mà còn cho nền kinh tế quốc gia.

Xin cảm ơn ông!

Mạnh Tưởng (thực hiện)

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • vietinbank
  • bao-hiem-pjico
  • rot-von-duong-dai-agri
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 76,500 78,500
AVPL/SJC HCM 76,500 78,500
AVPL/SJC ĐN 76,500 78,500
Nguyên liệu 9999 - HN 75,750 ▼50K 76,500 ▼50K
Nguyên liệu 999 - HN 75,650 ▼50K 76,400 ▼50K
AVPL/SJC Cần Thơ 76,500 78,500
Cập nhật: 12/08/2024 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 76.300 77.550 ▼40K
TPHCM - SJC 76.500 78.500
Hà Nội - PNJ 76.300 77.550 ▼40K
Hà Nội - SJC 76.500 78.500
Đà Nẵng - PNJ 76.300 77.550 ▼40K
Đà Nẵng - SJC 76.500 78.500
Miền Tây - PNJ 76.300 77.550 ▼40K
Miền Tây - SJC 76.500 78.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 76.300 77.550 ▼40K
Giá vàng nữ trang - SJC 76.500 78.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 76.300
Giá vàng nữ trang - SJC 76.500 78.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 76.250 ▼50K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 76.200 77.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 76.120 76.920
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 75.330 76.330
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 70.130 70.630
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 56.500 57.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 51.110 52.510
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 48.800 50.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 45.720 47.120
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 43.800 45.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 30.780 32.180
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 27.630 29.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.160 25.560
Cập nhật: 12/08/2024 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,515 7,710 ▲5K
Trang sức 99.9 7,505 7,700 ▲5K
NL 99.99 7,520
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,520
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,620 7,750 ▲5K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,620 7,750 ▲5K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,620 7,750 ▲5K
Miếng SJC Thái Bình 7,650 7,850
Miếng SJC Nghệ An 7,650 7,850
Miếng SJC Hà Nội 7,650 7,850
Cập nhật: 12/08/2024 12:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 76,500 78,500
SJC 5c 76,500 78,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 76,500 78,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 76,200 ▼50K 77,550 ▼50K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 76,200 ▼50K 77,650 ▼50K
Nữ Trang 99.99% 76,100 ▼50K 77,100 ▼50K
Nữ Trang 99% 74,337 ▼49K 76,337 ▼49K
Nữ Trang 68% 50,083 ▼34K 52,583 ▼34K
Nữ Trang 41.7% 29,804 ▼21K 32,304 ▼21K
Cập nhật: 12/08/2024 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,116.09 16,278.88 16,801.43
CAD 17,826.35 18,006.42 18,584.42
CHF 28,301.17 28,587.04 29,504.67
CNY 3,428.72 3,463.35 3,575.06
DKK - 3,607.44 3,745.65
EUR 26,722.33 26,992.25 28,188.05
GBP 31,219.27 31,534.62 32,546.87
HKD 3,137.80 3,169.50 3,271.24
INR - 298.33 310.26
JPY 165.84 167.52 175.53
KRW 15.91 17.67 19.28
KWD - 81,803.07 85,074.98
MYR - 5,620.27 5,742.95
NOK - 2,278.93 2,375.72
RUB - 269.71 298.58
SAR - 6,676.60 6,943.65
SEK - 2,340.75 2,440.18
SGD 18,491.78 18,678.56 19,278.14
THB 629.45 699.39 726.18
USD 24,910.00 24,940.00 25,280.00
Cập nhật: 12/08/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,930.00 24,940.00 25,260.00
EUR 26,868.00 26,976.00 28,090.00
GBP 31,342.00 31,531.00 32,505.00
HKD 3,153.00 3,166.00 3,270.00
CHF 28,467.00 28,581.00 29,466.00
JPY 166.81 167.48 175.10
AUD 16,203.00 16,268.00 16,766.00
SGD 18,605.00 18,680.00 19,245.00
THB 694.00 697.00 726.00
CAD 17,933.00 18,005.00 18,538.00
NZD 14,835.00 15,334.00
KRW 17.59 19.23
Cập nhật: 12/08/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24920 24920 25260
AUD 16301 16351 16861
CAD 18057 18107 18558
CHF 28723 28773 29339
CNY 0 3459.8 0
CZK 0 1037 0
DKK 0 3670 0
EUR 27129 27179 27881
GBP 31742 31792 32447
HKD 0 3230 0
JPY 168.63 169.13 173.64
KHR 0 6.2261 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 0.963 0
MYR 0 5800 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 14865 0
PHP 0 412 0
SEK 0 2386 0
SGD 18736 18786 19338
THB 0 671.2 0
TWD 0 765 0
XAU 7650000 7650000 7850000
XBJ 7200000 7200000 7570000
Cập nhật: 12/08/2024 12:00