Áp hạn mức tăng trưởng tín dụng, liệu chất và lượng có tốt hơn?

11:00 | 16/04/2013

932 lượt xem
|
(Petrotimes) - Với mục tiêu kiểm soát chất lượng tín dụng, năm nay Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tiếp tục phân nhóm các tổ chức tín dụng (TCTD) để giao tỷ lệ tăng trưởng tín dụng trong năm 2013. Số liệu cụ thể cơ bản đã được thông báo cho từng TCTD và nhìn chung, tốc độ tăng trưởng đang được kiểm soát chặt hơn so với kỳ trước.

Giao chỉ tiêu dựa trên “sức khỏe” của các TCTD

Việc giao chỉ tiêu tín dụng có lẽ không gây bất ngờ cho các nhà băng, bởi lẽ NHNN đã đánh tiếng về việc giao chỉ tiêu này từ Chỉ thị số 01/CT-NHNN của NHNN ban hành ngày 31/1/2013 trong đó nêu rõ, năm 2013, cơ quan quản lý sẽ thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với các TCTD phù hợp với quy mô, chất lượng tín dụng, khả năng quản lý thanh khoản, khả năng quản trị điều hành của tổ chức đó.

Tuy nhiên, khác với sự “ồn ào” của việc phân loại, đánh giá các TCTD trước khi giao chỉ tiêu tăng trưởng vào năm 2012 thì năm nay, việc này có vẻ “im lặng” hơn nhiều. Điều này có thể lý giải do năm 2012, NHNN chưa có cái nhìn, đánh giá đầy đủ về “sức khỏe” của các TCTD, do vậy, lần đầu xếp loại, đánh giá các TCTD một cách công khai đã gặp phải nhiều ý kiến khác nhau. Còn năm nay, quá trình tái cơ cấu các TCTD đã diễn ra mạnh mẽ được hơn 1 năm, về cơ bản “sức khỏe” của các TCTD đã được NHNN nhìn nhận, đánh giá một cách sát thực hơn trong cả một thời gian dài, vì vậy, khi phân nhóm xếp loại để giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng sẽ gặp nhiều thuận lợi cũng như sự đồng thuận từ phía các TCTD.

Chất lượng tín dụng là mục tiêu hàng đầu trong việc giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho ngân hàng (ảnh: Mạnh Thắng)

Theo thông báo từ các ngân hàng thuộc nhóm cao nhất (12-13%) thì tăng trưởng tín dụng năm nay được giao là khá thấp so với năm trước là 17%, trong bối cảnh nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, tín dụng chưa thể tăng trưởng mạnh do nút thắt trong cơ chế cấp tín dụng cho các doanh nghiệp là lãi suất vẫn chưa được tháo gỡ. Ngoài ra, việc chậm giải quyết nợ xấu sẽ gây trở ngại lớn cho việc tiếp cận vốn ngân hàng của các doanh nghiệp. Do vậy, nhìn chung mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm 12% vẫn đối mặt với thách thức lớn.

Tuy vậy, việc giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm nay cũng có một số bất ngờ khi những ngân hàng hiện đang có tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2012 khá cao như Sacombank 19,6%, Vietcombank 15,16%, MB Bank 25,4%… cũng chỉ được giao tăng trưởng 12% trong năm nay. Chỉ cá biệt trường hợp của Vietinbank mặc dù chỉ tăng trưởng 13,6% trong năm 2012, tuy nhiên, theo thông tin từ ngân hàng này cho biết, mặc dù đã “xin” NHNN được tăng trưởng với tốc độ 15-20% nhưng rốt cuộc vẫn được giao chỉ tiêu tăng tín dụng nhích hơn một chút là 13%, so với “trần” 12% của các ngân hàng khác.

Ngoài nhóm cao nhất với tốc độ tăng trưởng 12%, các ngân hàng còn lại được xếp vào nhóm 2 với tốc độ tăng trưởng tín dụng tối đa là 10%. Các ngân hàng yếu có thể chỉ được tăng trưởng tín dụng thấp hoặc không được tăng trưởng. Tuy nhiên, hiện những ngân hàng nào nằm trong nhóm cuối bảng này vẫn chưa được công khai.

Chất lượng và chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng có được kiểm soát?

Mặc dù chất lượng tín dụng là mục tiêu hàng đầu trong việc giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng như phát biểu của một đại diện của NHNN, tuy nhiên những khó khăn đang gặp phải trong hệ thống ngân hàng khiến cho nỗi lo cả về chất và lượng của việc tăng trưởng này khó có thể đạt được.

Trong bối cảnh lãi suất cho vay còn quá cao, nằm ngoài khả năng của các doanh nghiệp, do vậy, mặc dù có nhu cầu nhưng doanh nghiệp không thể tiếp cận được nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng. Thêm nữa, giả sử lãi suất cho vay có được giảm về mức thấp 10% sau khi lãi suất huy động giảm về 7,5% thì với dư nợ cũ khá cao 15-17%, doanh nghiệp cũng không thể xoay đâu ra vốn để “đảo nợ” cũ, chưa nói là vay mới.

Một nguyên nhân khác có thể khiến tốc độ tín dụng chạy chậm lại là do sức khỏe các doanh nghiệp quá yếu trong khi sức cầu yếu, hàng không tiêu thụ được, tồn kho lớn… do vậy doanh nghiệp không dám vay vốn để mở rộng sản xuất.

Ông Nguyễn Thanh Toại, Phó tổng giám đốc ACB từng chia sẻ: “Từ cuối năm 2012, tôi đã khẳng định với báo chí là lãi suất cứ cao thế này thì khó cho vay lắm”. Hệ quả tất yếu là tăng trưởng dư nợ trong quý I của nhiều ngân hàng âm và dư nợ cả hệ thống quý I/2013 chỉ đạt 0,1%, thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu tăng trưởng tín dụng 12% mà NHNN đặt ra trong năm 2013.

Đánh giá về khả năng đạt được mục tiêu tăng trưởng 12% trong năm 2013, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cũng nhận định, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế quá yếu là nguyên nhân chính khiến tín dụng chảy chậm. Cơ quan này cũng cho rằng, tăng trưởng tín dụng năm nay khó đạt mục tiêu đề ra là 12%.

Bên cạnh tăng trưởng về lượng, việc kiểm soát chất lượng tín dụng vẫn được xem là khó khăn và phụ thuộc hoàn toàn từ phía các ngân hàng. Trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, nhiều doanh nghiệp thua lỗ, phá sản khiến nguồn khách hàng tốt tìm đến ngân hàng vay vốn ngày càng ít đi. Vì mảng tín dụng thường chiếm 40-70% trong cơ cấu doanh thu của mỗi ngân hàng, do vậy, bắt buộc cho vay ra để duy trì mức doanh thu và lợi nhuận kỳ vọng có thể khiến nhiều ngân hàng tự ý giảm điều kiện cấp tín dụng của mình, sẵn sàng chấp nhận nhiều khách hàng và tài sản bảo đảm chưa đạt chuẩn, do vậy, rủi ro tái phát sinh nợ xấu cao.

Trước đó, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình từng khẳng định, ngành ngân hàng sẽ nỗ lực đưa lãi suất cho vay xuống 9-10%/năm, lãi suất các khoản vay cũ cũng sẽ hạ xuống còn 13%/năm. Tuy nhiên, đến nay các doanh nghiệp vẫn đang “thoi thóp” chờ đợi chứ chưa được hưởng lãi suất thấp trên thực tế.

Ngoài ra, Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) nhiều khả năng sẽ được Chính phủ thành lập vào giữa năm 2013. VAMC dự kiến sẽ mua lại nợ xấu ngân hàng bằng 100% giá trị sổ sách và đưa nợ xấu ngân hàng ra khỏi bảng cân đối tài sản, giúp tài sức khỏe các ngân hàng “lành mạnh” trở lại để có “cửa” tăng trưởng tín dụng. Đồng thời, chính sách tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp và “giải cứu” thị trường bất động sản phát huy tác dụng sẽ tác động tích cực đến nhu cầu tín dụng từ phía các doanh nghiệp, giúp ngân hàng mạnh tay tăng trưởng tín dụng, đồng thời có được các doanh nghiệp tốt để cho vay.

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, hiện thời gian không còn nhiều và NHNN còn cần phải thực hiện nhiều hơn nữa các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và giảm lãi suất cho vay trên thực tế để thúc đẩy chất lượng và tăng trưởng tín dụng trong các quý tiếp theo nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng 12% trong năm 2013.

Thành Trung

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,700 151,700
Hà Nội - PNJ 148,700 151,700
Đà Nẵng - PNJ 148,700 151,700
Miền Tây - PNJ 148,700 151,700
Tây Nguyên - PNJ 148,700 151,700
Đông Nam Bộ - PNJ 148,700 151,700
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,090 15,290
Miếng SJC Nghệ An 15,090 15,290
Miếng SJC Thái Bình 15,090 15,290
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,950 15,250
NL 99.99 14,230
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230
Trang sức 99.9 14,540 15,140
Trang sức 99.99 14,550 15,150
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,509 15,292
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,509 15,293
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 1,505
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 1,506
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,465 1,495
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,352 14,802
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,786 112,286
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,432 10,182
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,854 91,354
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,817 87,317
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,998 62,498
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cập nhật: 26/11/2025 09:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16486 16754 17332
CAD 18161 18437 19053
CHF 32034 32416 33063
CNY 0 3470 3830
EUR 29882 30155 31183
GBP 33965 34355 35281
HKD 0 3260 3462
JPY 162 166 172
KRW 0 16 18
NZD 0 14473 15061
SGD 19725 20006 20528
THB 732 795 849
USD (1,2) 26103 0 0
USD (5,10,20) 26145 0 0
USD (50,100) 26173 26193 26403
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,183 26,183 26,403
USD(1-2-5) 25,136 - -
USD(10-20) 25,136 - -
EUR 30,014 30,038 31,175
JPY 165.61 165.91 172.86
GBP 34,215 34,308 35,106
AUD 16,780 16,841 17,286
CAD 18,385 18,444 18,966
CHF 32,308 32,408 33,078
SGD 19,858 19,920 20,539
CNY - 3,671 3,768
HKD 3,339 3,349 3,432
KRW 16.64 17.35 18.63
THB 780.33 789.97 841.1
NZD 14,485 14,619 14,967
SEK - 2,718 2,797
DKK - 4,014 4,130
NOK - 2,537 2,611
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,970.93 - 6,697.25
TWD 759.77 - 914.16
SAR - 6,932.04 7,256.31
KWD - 83,806 88,590
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,183 26,403
EUR 29,808 29,928 31,060
GBP 33,948 34,084 35,051
HKD 3,321 3,334 3,441
CHF 32,047 32,176 33,065
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,715 16,782 17,318
SGD 19,863 19,943 20,483
THB 793 796 831
CAD 18,352 18,426 18,959
NZD 14,564 15,072
KRW 17.19 18.77
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26175 26175 26403
AUD 16735 16835 17760
CAD 18359 18459 19474
CHF 32248 32278 33873
CNY 0 3687.1 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 30057 30087 31815
GBP 34221 34271 36037
HKD 0 3390 0
JPY 165.33 165.83 176.35
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14712 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19878 20008 20736
THB 0 761.9 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15090000 15090000 15290000
SBJ 13000000 13000000 15290000
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,198 26,248 26,403
USD20 26,198 26,248 26,403
USD1 26,198 26,248 26,403
AUD 16,726 16,826 17,935
EUR 30,113 30,113 31,227
CAD 18,278 18,378 19,689
SGD 19,930 20,080 20,646
JPY 165.69 167.19 171.76
GBP 34,203 34,353 35,126
XAU 15,088,000 0 15,292,000
CNY 0 3,567 0
THB 0 795 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/11/2025 09:00