Xuất siêu liên tiếp giúp ổn định tỷ giá và các chỉ số kinh tế vĩ mô

14:21 | 25/12/2023

351 lượt xem
|
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh đã khẳng định như vậy về thành tích xuất siêu năm 2023 trong cuộc trao đổi với phóng viên.

Kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2023 đạt con số gần 700 tỷ USD, thấp hơn con số kỷ lục 730,28 tỷ USD năm 2022, ông bình luận như thế nào về con số này?

Số liệu mà Bộ Công Thương mới đây công bố cho thấy, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2023 ước đạt 683 tỷ USD, trong đó, xuất khẩu ước đạt 354,5 tỷ USD, nhập khẩu ước đạt 328,5 tỷ USD.

xuất khẩu hàng hóa
Năm 2023, cán cân thương mại tiếp tục nghi nhận xuất siêu năm thứ 8 liên tiếp

Như vậy, cán cân thương mại tiếp tục ghi nhận xuất siêu năm thứ 8 liên tiếp với mức thặng dư ước đạt 26 tỷ USD, tăng gần gấp 3 lần năm 2022, góp phần tích cực cho cán cân thanh toán, giúp nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá và các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế.

Năm 2023 xuất khẩu nhiều mặt hàng như điện tử, linh phụ kiện, dệt may, da giày, đồ gỗ,… không đạt được như mong muốn. Trong bối cảnh sự thay đổi rất mạnh mẽ của thị trường thế giới, nhưng hoạt động xuất nhập khẩu đạt mức xấp xỉ năm 2022 thì cũng là sự nỗ lực của các Bộ, ban, ngành, cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động đẩy mạnh việc tiếp cận thị trường, quảng bá thương hiệu, phát huy các yếu tố có liên quan trong hoạt động xuất nhập khẩu. Cùng với đó, các doanh nghiệp đã nỗ lực trong việc tích cực tranh thủ cơ hội từ sự phục hồi của các thị trường lớn, truyền thống để đẩy mạnh xuất khẩu.

Đáng chú ý, trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục tăng trưởng chậm, tổng cầu thế giới sụt giảm nhưng hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tiếp tục vượt qua khó khăn, mặc dù chưa đạt được mức tăng trở lại so với năm trước nhưng mức suy giảm tiếp tục được thu hẹp.

Theo đó, mức độ suy giảm trong xuất khẩu ngày càng được thu hẹp từ mức giảm 12% trong nửa đầu năm 2023 xuống mức giảm khoảng 4,6% trong cả năm 2023.

Trong hoạt động xuất khẩu, ta đã thực hiện tốt việc đa dạng hóa thị trường trong bối cảnh xuất khẩu sang các thị trường lớn đều sụt giảm; kim ngạch xuất khẩu sang các nước châu Phi, Đông Âu, Bắc Âu, Tây Á tăng; mức suy giảm xuất khẩu tại một số thị trường chủ lực tiếp tục được thu hẹp.

Cụ thể, xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ thu hẹp từ mức giảm 22,6% trong nửa đầu năm 2023 xuống mức giảm khoảng 11,2% trong cả năm 2023; EU thu hẹp từ mức giảm 10,1% trong nửa đầu năm 2023 xuống còn khoảng 4,8% trong cả năm 2023; Hàn Quốc thu hẹp từ mức 10,2% xuống còn khoảng 2,5%...

Đáng chú ý, xuất khẩu của nước ta sang thị trường Trung Quốc đảo chiều từ mức giảm 2,2% trong 6 tháng đầu năm sang mức tăng khoảng 8,1% trong cả năm 2023 trong khi các thị trường lớn khác đều giảm.

Khu vực kinh tế trong nước tiếp tục nỗ lực để duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu trong bối cảnh kinh tế toàn cầu gặp nhiều khó khăn. Mức giảm xuất khẩu của khu vực này trong năm 2023 (ước giảm 0,9%) thấp hơn nhiều so với mức giảm xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) (ước giảm 5,9%) và thấp hơn với mức giảm kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước (ước giảm 4,6%).

Nhiều nhóm hàng nông sản, gạo, trái cây tận dụng được cơ hội mở cửa thị trường và giá tăng cao để đẩy mạnh xuất khẩu. Đây là nhóm hàng duy nhất ghi nhận mức tăng so với cùng kỳ năm trước (ước cả năm tăng 4,8%).

Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.

Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu chia sẻ, tổng kết năm 2023 bằng 2 từ "thách thức", trong đó, "xanh hóa" là chủ đề được nhắc nhiều nhất trong suốt năm qua. Theo ông, các doanh nghiệp đã thích ứng như thế nào?

Trong năm 2023, vấn đề sản xuất xanh, tiêu dùng xanh, phát triển bền vững đã được nói đến khá nhiều. Nhiều thị trường đưa ra các tiêu chuẩn khắt khe hơn, ví dụ như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) hay Quy định chống phá rừng (EUDR) của Ủy ban châu Âu (EC).

Chuyên gia kinh tế, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh (Học viện Tài chính)
Chuyên gia kinh tế, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh

Chúng ta phải đáp ứng yêu cầu sản xuất xanh là một yêu cầu thực tiễn đặt ra. Rõ ràng, trong năm 2023, ở một số ngành nghề, việc thiếu đơn hàng không chỉ là phụ thuộc vào việc chậm đổi mới mẫu mã, kiểu dáng mà còn ở các tiêu chuẩn xanh hóa ở một số thị trường phát triển chúng ta vẫn chưa thích ứng được và đáp ứng kịp.

Việt Nam là quốc gia lấy xuất nhập khẩu làm động lực tăng trưởng. Chúng ta đã có hơn 1 năm để các ngành nghề như dệt may, da giày, sắt thép, gỗ… nắm lại tình hình tại các thị trường truyền thống, cũng như mở rộng tại các thị trường mà chúng ta có ký các FTA và các thị trường khác.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy những tháng cuối năm, số lượng doanh nghiệp thành lập mới nhiều hơn, lượng doanh nghiệp đóng cửa, ngừng sản xuất giảm đi một cách đáng kể. Do đó, hoạt động xuất nhập khẩu trong năm 2024 hi vọng sẽ tốt hơn.

Với thị trường trong nước, mặc dù có rất nhiều các chính sách kích cầu nhưng còn bấp bênh. Tuy nhiên, chúng ta hy vọng với các chính sách về giảm thuế VAT, giảm các loại phí, lệ phí, hy vọng, tiêu dùng trong nước năm 2024 sẽ ghi nhận mức tăng trưởng cao hơn. Trên cơ sở đó sẽ đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh trôi chảy hơn, tiêu thụ hàng hóa tốt hơn, lượng tồn kho hàng hóa giảm đi.

Chúng tôi kỳ vọng, năm 2024 sẽ tăng trưởng cao hơn cả trong xuất nhập khẩu, tiêu thụ trong nước và đạt được các mục tiêu mà Quốc hội và Chính phủ đề ra đó là tăng trưởng GDP 6 - 6,5% và từ đó tạo bản lề trong thời gian tới.

Trong năm 2023, thành công của đường lối đối ngoại kinh tế quốc tế đã được thể hiện rõ qua hàng loạt chuyến thăm Việt Nam của các nhà lãnh đạo các nền kinh tế hàng đầu. Việc này sẽ mở ra những cơ hội lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam ra sao, thưa ông?

Hoa Kỳ là quốc gia Việt Nam xuất khẩu lớn nhất trong số các bạn hàng. Với việc nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên Đối tác Chiến lược toàn diện đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trường Hoa Kỳ và đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu.

Thực tế, trong năm 2022, xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ giảm sút rất mạnh, có thời điểm giảm sút tới 30% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, sau chuyến thăm của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden vào Việt Nam thì lượng xuất nhập khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ tăng lên. Rõ ràng, việc này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kết nối giao thương cả đầu tư và thương mại 2 nước. Phía cơ quan quản lý Hoa Kỳ cũng hiểu hơn Việt Nam, các chính sách của Chính phủ của Nhà nước Việt Nam.

Trước đó, một số cơ quan Hoa Kỳ đưa Việt Nam trở lại danh sách ‘‘giám sát thao túng tiền tệ’’. Tuy nhiên, Việt Nam cũng khẳng định chúng ta không phá giá đồng tiền để cạnh tranh thương mại bất bình đẳng, Việt Nam là quốc gia giữ ổn định đồng tiền Việt Nam. Các cơ quan quản lý của Hoa Kỳ cũng đã ghi nhận việc này.

Với Trung Quốc, đây là quốc gia Việt Nam xuất khẩu tương đối lớn, nhưng nói về mặt nhập khẩu thì đây là đối tác Việt Nam nhập khẩu nhiều nhất. Hàng năm, chúng ta có thâm hụt cán cân thương mại nhiều nhất với Trung Quốc.

Trong Chuyến thăm Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình mới đây, hai bên đã ký 36 văn kiện hợp tác trên nhiều lĩnh vực, ở các cấp Trung ương và địa phương, tạo khuôn khổ quan hệ hợp tác lâu dài, làm phong phú nội hàm hợp tác giữa hai nước.

Trong đó, có một số ngành nghề mà Việt Nam đang chú tâm, phát triển, nhiều tập đoàn lớn trên thế giới đang quan tâm như điện, điện tử, linh phụ kiện,… Đây sẽ là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận thị trường Trung Quốc tốt hơn cả về xuất khẩu và nhập khẩu. Đồng thời, giảm thiểu thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam - Trung Quốc.

Riêng trong đầu tư, trong thời gian gần đây, Trung Quốc đang vươn lên trở thành quốc gia đứng hàng đầu trong đầu tư trực tiếp vào Việt Nam và hiện nay đang đứng trong Top 5 các quốc gia đầu tư vào Việt Nam.

Rõ ràng, quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc đã ký từ lâu, đến thời điểm hiện nay đã được nâng lên tầm cao mới và trên cơ sở 2 bên hiểu biết lẫn nhau từ đó sẽ có những hợp tác lâu dài trong cả đầu tư và thương mại giữa hai nước.

Xin cảm ơn ông!

Theo Báo Công Thương

Xuất siêu đạt mức kỷ lục gần 25 tỷ USD

Xuất siêu đạt mức kỷ lục gần 25 tỷ USD

Tính đến nửa đầu tháng 11, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đã gần chạm mốc 600 tỷ USD, xuất siêu đạt mức kỷ lục gần 25 tỷ USD.

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 146,200 149,200
Hà Nội - PNJ 146,200 149,200
Đà Nẵng - PNJ 146,200 149,200
Miền Tây - PNJ 146,200 149,200
Tây Nguyên - PNJ 146,200 149,200
Đông Nam Bộ - PNJ 146,200 149,200
Cập nhật: 27/10/2025 06:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,720 14,920
Miếng SJC Nghệ An 14,720 14,920
Miếng SJC Thái Bình 14,720 14,920
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,720 14,920
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,720 14,920
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,720 14,920
NL 99.99 14,660
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,660
Trang sức 99.9 14,650 14,910
Trang sức 99.99 14,660 14,920
Cập nhật: 27/10/2025 06:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,472 1,492
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,472 14,922
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,472 14,923
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,461 1,486
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,461 1,487
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,446 1,476
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 141,639 146,139
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 103,361 110,861
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 93,028 100,528
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 82,695 90,195
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 78,709 86,209
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,205 61,705
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,472 1,492
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,472 1,492
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,472 1,492
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,472 1,492
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,472 1,492
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,472 1,492
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,472 1,492
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,472 1,492
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,472 1,492
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,472 1,492
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,472 1,492
Cập nhật: 27/10/2025 06:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16602 16871 17443
CAD 18260 18536 19150
CHF 32395 32778 33434
CNY 0 3470 3830
EUR 29943 30215 31243
GBP 34204 34594 35539
HKD 0 3254 3456
JPY 165 169 175
KRW 0 17 19
NZD 0 14809 15391
SGD 19707 19988 20519
THB 718 781 837
USD (1,2) 26036 0 0
USD (5,10,20) 26077 0 0
USD (50,100) 26106 26125 26352
Cập nhật: 27/10/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,133 26,133 26,352
USD(1-2-5) 25,088 - -
USD(10-20) 25,088 - -
EUR 30,185 30,209 31,352
JPY 169.11 169.41 176.47
GBP 34,670 34,764 35,589
AUD 16,878 16,939 17,383
CAD 18,486 18,545 19,074
CHF 32,794 32,896 33,580
SGD 19,890 19,952 20,563
CNY - 3,647 3,744
HKD 3,335 3,345 3,428
KRW 16.97 17.7 19
THB 768.36 777.85 827.4
NZD 14,855 14,993 15,347
SEK - 2,768 2,848
DKK - 4,037 4,153
NOK - 2,597 2,672
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,840.48 - 6,552.24
TWD 773.96 - 931.83
SAR - 6,917.2 7,240.64
KWD - 83,754 88,562
Cập nhật: 27/10/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,190 26,192 26,352
EUR 30,018 30,139 31,221
GBP 34,509 34,648 35,583
HKD 3,326 3,339 3,441
CHF 32,550 32,681 33,566
JPY 168.83 169.51 176.25
AUD 16,831 16,899 17,421
SGD 19,955 20,035 20,548
THB 783 786 820
CAD 18,503 18,577 19,087
NZD 14,926 15,404
KRW 17.65 19.28
Cập nhật: 27/10/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26168 26168 26352
AUD 16729 16829 17439
CAD 18407 18507 19111
CHF 32626 32656 33543
CNY 0 3657.2 0
CZK 0 1210 0
DKK 0 4100 0
EUR 30086 30116 31138
GBP 34533 34583 35691
HKD 0 3390 0
JPY 168.41 168.91 175.93
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.191 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2600 0
NZD 0 14896 0
PHP 0 423 0
SEK 0 2773 0
SGD 19855 19985 20717
THB 0 747 0
TWD 0 855 0
SJC 9999 14650000 14650000 14850000
SBJ 13000000 13000000 14850000
Cập nhật: 27/10/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,100 26,150 26,352
USD20 26,100 26,150 26,352
USD1 23,844 26,150 26,352
AUD 16,760 16,860 17,995
EUR 30,189 30,189 31,552
CAD 18,332 18,432 19,769
SGD 19,914 20,064 20,560
JPY 168.75 170.25 175.12
GBP 34,589 34,739 35,558
XAU 14,778,000 0 14,982,000
CNY 0 3,538 0
THB 0 782 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 27/10/2025 06:00