Xử lý nợ xấu ngân hàng (Kỳ IV): Cần sớm luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14

15:44 | 07/11/2020

181 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Trong bối cảnh nợ xấu ngân hàng tăng mạnh, nhiều ý kiến đề nghị cần nhanh chóng “luật hóa” Nghị quyết 42/2017/QH14 để tạo hành lang pháp lý đủ mạnh hỗ trợ xử lý nợ xấu.
Xử lý nợ xấu ngân hàng (Kỳ IV): Cần sớm luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14
Nợ xấu của một số ngân hàng trong 9 tháng đầu năm nay

Nợ xấu tăng nhanh

Báo cáo tài chính quý 3 của hầu hết các ngân hàng đều ghi nhận nợ xấu gia tăng nhanh chóng cả về giá trị tuyệt đối lẫn tỷ lệ.

Đơn cử như Vietcombank, trong 9 tháng đầu năm nay, nợ xấu của nhà băng này đã tăng thêm tới 2.081 tỷ đồng (tương đương tăng 35,9%) lên gần 7.885 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu vì thế cũng tăng mạnh từ mức 0,79% tại thời điểm cuối năm 2019 lên 1% khi kết thúc quý 3 năm nay.

Tình hình cũng diễn ra tương tự tại các ngân hàng cổ phần. Chẳng hạn như nợ xấu của VPBank cũng tăng thêm 1.350 tỷ đồng trong cùng thời gian này lên 10.147 tỷ đồng; tỷ lệ nợ xấu vì thế cũng tăng tương ứng từ 3,42% lên 3,65%...

Phát biểu tại buổi họp báo thường kỳ Chính phủ tháng 10 vừa diễn ra mới đây, bà Nguyễn Thị Hồng – Phó Thống đốc NHNN cũng thừa nhận thực tế nợ xấu tại các ngân hàng đang có xu hướng tăng nhanh trở lại do những tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19.

Theo đó, đại dịch này đã ảnh hưởng tới bức tranh nợ xấu của các nhà băng dưới 2 góc độ. Thứ nhất, dịch bệnh đã làm gián đoạn hoạt động sản xuất – kinh doanh, từ đó ảnh hưởng tới doanh thu, thu nhập và khả năng trả nợ của khách hàng, đẩy nợ xấu tăng. Thứ hai, dịch bệnh cũng khiến tín dụng tăng thấp do cầu tín dụng yếu. Vì thế, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ lại càng tăng nhanh hơn.

Tuy nhiên, theo một chuyên gia ngân hàng, những con số thể hiện trong báo cáo tài chính của các ngân hàng vẫn chưa phản ảnh đúng thực chất bức tranh nợ xấu của các nhà băng hiện nay. Bởi vì, không ít các khoản nợ đang được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, song vẫn được giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN. Bởi thế, nếu không có Thông tư này, nợ xấu của các ngân hàng có thể còn tăng nhanh hơn.

“Thông tư 01 chỉ là giải pháp tình thế, có thể hãm lại tốc độ tăng của nợ xấu trong thời điểm hiện tại, nhưng sẽ đẩy nợ xấu về phía tương lai. Có nghĩa khi Thông tư 01 hết hiệu lực, nhiều khoản nợ hiện tại sẽ nhanh chóng trở thành nợ xấu”, vị chuyên gia trên nói.

Gỡ nút thắt xử lý nợ xấu

Trong báo cáo cập nhật về ngành Ngân hàng vừa công bố mới đây, khối phân tích tại SSI Research đánh giá, nợ xấu và nợ vay tái cơ cấu sẽ tăng nhanh vào cuối năm nay. SSI Research ước tính nợ xấu sẽ tăng 17% và 14% lần lượt trong năm 2020 và 2021 (so với mức giảm 16,3% năm 2019).

Xử lý nợ xấu ngân hàng (Kỳ IV): Cần sớm luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14
Xử lý nợ xấu ngân hàng (Kỳ IV): Cần sớm luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14

Trong khi đó, việc xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42/2017/QH14 vẫn còn khá nhiều vướng mắc, đặc biệt là việc thu giữ và xử lý tài sản đảm bảo do con nợ không hợp tác. Bên cạnh đó, một cơ chế mà ngân hàng mong mỏi là Nghị quyết 42 với quy định cho phép ngân hàng áp dụng thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, số lượng các vụ việc xử lý thông qua thủ tục rút gọn tại tòa án rất hạn chế.

Nhiều lãnh đạo ngân hàng cũng than thở, hiện quy trình đòi nợ của ngân hàng thường phải trải qua rất nhiều bước: khởi kiện dân sự, tòa xử và bàn giao tài sản cho ngân hàng, rồi ngân hàng mới có thể nhận tài sản để xử lý, thu hồi nợ... Khâu nào trong quy trình này cũng đều gặp khó khăn. Chẳng hạn tại Agribank, số vụ kiện dân sự mà ngân hàng này đang chờ tòa xử lên đến hơn 7.000 vụ. Đến ngày 30/6/2020, số tiền thu nợ từ các khoản được xử lý dự phòng rủi ro của Agribank mới chỉ đạt 2.897 tỷ đồng, thấp hơn 1.105 tỷ đồng so với cùng kỳ năm ngoái.

Một thực tế đáng lo ngại nữa được TS. Cấn Văn Lực – Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV chỉ ra, đó là nhiều khách hàng đã có dấu hiệu lợi dụng dịch bệnh để trì hoãn trả nợ, giao tài sản thanh lý cho các TCTD, khiến cho quá trình xử lý nợ xấu càng khó khăn hơn.

Trong bối cảnh nợ xấu cũ chưa được xử lý triệt để, nợ xấu mới lại có xu hướng tăng nhanh, TS. Cấn Văn Lực đề xuất, đã đến lúc phải tính đến việc ban hành luật riêng về xử lý nợ xấu ngân hàng để gỡ các nút thắt hiện nay, giúp cho tiến trình xử lý nợ xấu được đẩy nhanh hơn và triệt để hơn.

Trên thực tế, vấn đề luật hóa xử lý nợ xấu đã được lãnh đạo Công ty Quản lý tài sản của các TCTD (VAMC) đề xuất từ lâu. Theo ông Nguyễn Tiến Đông – Chủ tịch HĐTV VAMC, để giải quyết căn cơ vấn đề nợ xấu, cần phải “luật hóa” Nghị quyết 42. “Một trong những lý do chính khiến việc xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 chưa có hiệu quả cao là do Nghị quyết chưa được luật hóa, nên các chế tài chưa rõ ràng. Nhiều quy định tại Nghị quyết khi triển khai phải dựa vào nhiều bộ luật, mà giá trị pháp lý thậm chí còn cao hơn cả Luật Các TCTD, nên rất khó cho VAMC và các ngân hàng khi triển khai. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu, thời gian tới, nhất thiết phải luật hóa Nghị quyết 42, đưa ra chế tài và quy rõ nhiệm vụ cho từng ngành, địa phương”, ông Đông đề nghị.

Theo DDDN

Xử lý nợ xấu ngân hàng (Kỳ III): Cấp bách sàn giao dịch nợ xấuXử lý nợ xấu ngân hàng (Kỳ III): Cấp bách sàn giao dịch nợ xấu
Xử lý nợ xấu ngân hàng (Kỳ II): Chứng khoán hóa nợ xấu bằng cách nào?Xử lý nợ xấu ngân hàng (Kỳ II): Chứng khoán hóa nợ xấu bằng cách nào?
Xử lý nợ xấu ngân hàng (Kỳ I): Nợ xấu 9 tháng đầu năm tăng vọtXử lý nợ xấu ngân hàng (Kỳ I): Nợ xấu 9 tháng đầu năm tăng vọt

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,200 ▼500K 119,200 ▼500K
AVPL/SJC HCM 117,200 ▼500K 119,200 ▼500K
AVPL/SJC ĐN 117,200 ▼500K 119,200 ▼500K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,760 ▼50K 11,100 ▼50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,750 ▼50K 11,090 ▼50K
Cập nhật: 28/06/2025 18:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
TPHCM - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Hà Nội - PNJ 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Hà Nội - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Đà Nẵng - PNJ 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Đà Nẵng - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Miền Tây - PNJ 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Miền Tây - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.400 ▼300K
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.400 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.700 ▼300K 115.200 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.590 ▼300K 115.090 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.880 ▼300K 114.380 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.650 ▼300K 114.150 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.050 ▼230K 86.550 ▼230K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.040 ▼180K 67.540 ▼180K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.570 ▼130K 48.070 ▼130K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.120 ▼280K 105.620 ▼280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.920 ▼190K 70.420 ▼190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.530 ▼200K 75.030 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.990 ▼200K 78.490 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.850 ▼110K 43.350 ▼110K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.670 ▼100K 38.170 ▼100K
Cập nhật: 28/06/2025 18:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,140 ▼30K 11,590 ▼30K
Trang sức 99.9 11,130 ▼30K 11,580 ▼30K
NL 99.99 10,820 ▼30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,350 ▼30K 11,650 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,350 ▼30K 11,650 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,350 ▼30K 11,650 ▼30K
Miếng SJC Thái Bình 11,720 ▼50K 11,920 ▼50K
Miếng SJC Nghệ An 11,720 ▼50K 11,920 ▼50K
Miếng SJC Hà Nội 11,720 ▼50K 11,920 ▼50K
Cập nhật: 28/06/2025 18:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16510 16778 17354
CAD 18536 18813 19432
CHF 32001 32383 33032
CNY 0 3570 3690
EUR 29944 30217 31250
GBP 34978 35372 36310
HKD 0 3193 3396
JPY 173 177 183
KRW 0 18 20
NZD 0 15492 16077
SGD 19904 20187 20716
THB 715 778 835
USD (1,2) 25828 0 0
USD (5,10,20) 25868 0 0
USD (50,100) 25896 25930 26275
Cập nhật: 28/06/2025 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,910 25,910 26,270
USD(1-2-5) 24,874 - -
USD(10-20) 24,874 - -
GBP 35,385 35,481 36,372
HKD 3,265 3,274 3,374
CHF 32,207 32,307 33,117
JPY 177.47 177.79 185.33
THB 763.79 773.22 827
AUD 16,814 16,875 17,346
CAD 18,819 18,879 19,433
SGD 20,081 20,144 20,819
SEK - 2,695 2,788
LAK - 0.92 1.28
DKK - 4,022 4,161
NOK - 2,541 2,632
CNY - 3,590 3,688
RUB - - -
NZD 15,482 15,625 16,084
KRW 17.77 18.53 20
EUR 30,094 30,119 31,342
TWD 816.87 - 988.28
MYR 5,766.06 - 6,505.79
SAR - 6,839.83 7,198.96
KWD - 83,097 88,350
XAU - - -
Cập nhật: 28/06/2025 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,925 25,925 26,265
EUR 29,940 30,060 31,184
GBP 35,235 35,377 36,374
HKD 3,259 3,272 3,377
CHF 32,000 32,129 33,067
JPY 176.72 177.43 184.81
AUD 16,784 16,851 17,387
SGD 20,131 20,212 20,765
THB 781 784 819
CAD 18,798 18,873 19,403
NZD 15,596 16,106
KRW 18.41 20.29
Cập nhật: 28/06/2025 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25910 25910 26270
AUD 16715 16815 17381
CAD 18759 18859 19415
CHF 32282 32312 33202
CNY 0 3604 0
CZK 0 1170 0
DKK 0 4060 0
EUR 30209 30309 31084
GBP 35361 35411 36521
HKD 0 3330 0
JPY 177.05 178.05 184.62
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6335 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 15626 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2730 0
SGD 20076 20206 20936
THB 0 745.1 0
TWD 0 880 0
XAU 11500000 11500000 12000000
XBJ 10500000 10500000 12000000
Cập nhật: 28/06/2025 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,920 25,970 26,250
USD20 25,920 25,970 26,250
USD1 25,920 25,970 26,250
AUD 16,768 16,918 17,992
EUR 30,238 30,388 31,575
CAD 18,708 18,808 20,125
SGD 20,150 20,300 20,777
JPY 177.69 179.19 183.84
GBP 35,429 35,579 36,378
XAU 11,768,000 0 11,972,000
CNY 0 3,489 0
THB 0 780 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 28/06/2025 18:45