Việt Nam có thể vượt Trung Quốc trở thành công xưởng thế giới nhờ EVFTA?

13:45 | 16/06/2020

848 lượt xem
|
Một cuộc di cư của các nhà sản xuất từ Trung Quốc đến Việt Nam là điều chưa chắc chắn. Tuy nhiên, Trung Quốc chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng đáng kể bởi thỏa thuận thương mại lớn này.

Các chuyên gia cho biết, thỏa thuận cắt giảm thuế sẽ thúc đẩy đầu tư của châu Âu vào Việt Nam - một trong những điểm đến hàng đầu tại Châu Á.

Việt Nam có thể vượt Trung Quốc trở thành công xưởng thế giới nhờ EVFTA?
Lễ ký kết Hiệp định thương mại tự do EU - Việt Nam tại Văn phòng Chính phủ tại Hà Nội. Ảnh: Reuters

Thỏa thuận thương mại tự do EU – Việt Nam sẽ cắt giảm hoặc loại bỏ 99% thuế quan đối với hàng hóa được giao dịch giữa hai bên. Đối với ngành dệt may, 77,3% thuế quan sẽ được dỡ bỏ sau 5 năm và 22,7% còn lại sau 7 năm.

Theo Chủ tịch Phòng Thương mại Châu Âu tại Việt Nam, Nicolas Audie: “Thỏa thuận thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA) xuất hiện vào đúng thời điểm thuận lợi cho các công ty Châu Âu.”

Dự kiến sẽ có hiệu lực vào tháng 7, EVFTA sẽ mở ra các dịch vụ của Việt Nam, bao gồm các thị trường bưu chính, ngân hàng, vận chuyển và mua sắm công. Đây là thỏa thuận thứ hai của EU với một thành viên của ASEAN sau Singapore, và là thỏa thuận hiếm hoi với một đất nước đang phát triển.

Thỏa thuận này sẽ mang lại lợi ích lớn cho nhiều công ty Việt Nam để có thể giới thiệu sản phẩm của mình tới thị trường châu Âu.

Ông Audie là một luật sư làm việc tại Việt Nam từ năm 1995, nói thêm: “Có thể coi đây là một lộ trình để phục hồi. Sự liên minh này sẽ giúp các công ty châu Âu tiếp cận nhiều hơn với một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới vào thời điểm chỉ có một vài nền kinh tế đang mở cửa cho các doanh nghiệp.”

Ông cho biết các doanh nghiệp tại Việt Nam đã có thể nhanh chóng phục hồi trở lại do đất nước Việt Nam đã xử lý thành công đại dịch Covid-19.

Ông Audie cũng dự đoán, đầu tư của EU vào Việt Nam sẽ gia tăng trong những tháng tới.

Ông nói, các công ty của châu Âu sẽ sớm tiếp cận tốt hơn với Việt Nam, thị trường tiêu dùng trung lưu đang phát triển, cũng như các lĩnh vực dịch vụ phát triển mạnh, như giáo dục đại học, viễn thông và ngân hàng.

Theo Ủy ban châu Âu, Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ hai của EU tại ASEAN sau Singapore, với các giao dịch thương mại trị giá 49,3 tỷ Euro (56 tỷ USD) cho hàng hóa và hơn 3 tỷ Euro cho các dịch vụ. Theo chính phủ Việt Nam, tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc đang ở mức 517,26 tỷ USD.

Sản xuất vẫn dựa vào chuỗi cung ứng Trung Quốc?

Ngay cả khi nhiều người trong khu vực hoan nghênh một thỏa thuận thương mại tự do giữa Liên minh châu Âu và Hà Nội để mở ra những khả năng kinh tế mới, một số nhà phân tích lại cho rằng, thỏa thuận này vẫn khó có khả năng trở thành “viên đạn bạc” cho sự phục hồi sau Covid-19 của Việt Nam.

Trinh Nguyen, một nhà kinh tế cấp cao ở châu Á tại Natixis - ngân hàng doanh nghiệp và đầu tư của Pháp - cho biết, sự gia tăng xuất khẩu của Việt Nam là do EVFTA có khả năng được bù đắp bởi sự phụ thuộc vào hàng nhập khẩu của Trung Quốc cho sản xuất.

Để giảm sự phụ thuộc này, theo ông Trinh Nguyen, Việt Nam cần cải thiện giáo dục đại học và thúc đẩy đào tạo và nội địa hóa các nhà cung cấp.

Các nhà kinh tế của Natixis cho biết, sự phụ thuộc của Việt Nam vào hàng nhập khẩu của Trung Quốc đã tăng lên trong những năm qua. Mối liên kết của Việt Nam với Trung Quốc tăng đáng kể từ năm 2014 đến 2018 so với các nước ASEAN khác.

Theo số liệu của hải quan Việt Nam, sản xuất hàng dệt may Việt Nam phụ thuộc phần lớn vào Trung Quốc, ví dụ như nguồn vải may mặc. Năm ngoái, Việt Nam đã xuất khẩu hàng dệt may trị giá 1,59 tỷ USD sang Trung Quốc và nhập khẩu 11,52 tỷ USD nguyên liệu đầu vào.

Ông Nguyen cho biết, thỏa thuận thương mại tự do đã quy định quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may sẽ buộc nhiều chuỗi cung ứng chuyển sang Việt Nam, mặc dù đó là mối lo ngại ngắn hạn cho ngành dệt may vì hiện tại nhập khẩu nguyên liệu đầu vào đang ở mức rẻ hơn. “Tôi hy vọng sẽ có thêm dòng vốn đầu tư để tăng đầu vào trong nước trong nền kinh tế", ông Trinh Nguyen chia sẻ thêm.

Mặc dù những căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc hiện nay cùng với khủng hoảng chuỗi cung ứng sau đại dịch Covid-19 đã khiến chính phủ các nước và nhiều nhà phân tích kêu gọi việc thực hiện đa dạng hóa chuỗi cung ứng nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc nhưng theo ông Trinh Nguyen, Việt Nam sẽ chỉ có thể hấp thụ các lĩnh vực mà đất nước nhắm đến, như dệt may, giày dép và điện tử. Và ngay cả trong lĩnh vực điện tử, sản xuất đòi hỏi phải huy động lực lượng lao động lớn, Việt Nam hiện vẫn chưa thể đạt được quy mô giống như Trung Quốc cũng như các mối liên kết cung ứng hiện có.

Deng Yingwen, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á tại Đại học Tế Nam đưa ra ý kiến: “So với Trung Quốc, thị trường Việt Nam rất nhỏ với dân số 100 triệu người, chỉ lớn hơn một chút so với khu vực tự trị phía tây nam Trung Quốc, Quảng Tây. Các công ty nước ngoài không có khả năng di dời khỏi Trung Quốc do thị trường Trung Quốc rộng lớn và năng lực sản xuất lớn.”

Tuy vậy rủi ro vẫn đến với Trung Quốc

Tuy nhiên Trung Quốc vẫn không thể tránh khỏi những tác động từ thỏa thuận thương mại giữa Việt Nam và EU . Một bài báo có tiêu đề “Cân nhắc và tác động của FTA Việt Nam-EU” được xuất bản vào tháng 5 vừa qua tại Trung Quốc đã viết rằng, khả năng cạnh tranh của một số sản phẩm chính của Trung Quốc tại thị trường EU - như dệt may, đồ gia dụng và giày dép - sẽ bị ảnh hưởng khi thỏa thuận thương mại giữa Việt Nam và EU có hiệu lực. Hiện tại, Việt Nam là nước xuất khẩu hàng may mặc lớn thứ ba thế giới, sau Trung Quốc và Bangladesh.

Một số chuyên gia phân tích cho biết, có khả năng các công ty châu Âu sẽ tăng đầu tư nhiều tại Việt Nam và giảm đầu tư vào Trung Quốc, đó là một vấn đề đáng quan tâm.

Công ty nước giải khát Saigon Cider hiện đang rất lạc quan và cho biết rằng: “Thỏa thuận thương mại tự do giữa Việt Nam - EU thực sự là một tin tốt cho chúng tôi và các doanh nghiệp Việt Nam.”

Theo Dân trí

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 150,000 ▲1600K 153,000 ▲1800K
Hà Nội - PNJ 150,000 ▲1600K 153,000 ▲1800K
Đà Nẵng - PNJ 150,000 ▲1600K 153,000 ▲1800K
Miền Tây - PNJ 150,000 ▲1600K 153,000 ▲1800K
Tây Nguyên - PNJ 150,000 ▲1600K 153,000 ▲1800K
Đông Nam Bộ - PNJ 150,000 ▲1600K 153,000 ▲1800K
Cập nhật: 13/11/2025 13:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,200 ▲250K 15,400 ▲250K
Miếng SJC Nghệ An 15,200 ▲250K 15,400 ▲250K
Miếng SJC Thái Bình 15,200 ▲250K 15,400 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 15,100 ▲250K 15,400 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 15,100 ▲250K 15,400 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 15,100 ▲250K 15,400 ▲250K
NL 99.99 14,430 ▲250K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,430 ▲250K
Trang sức 99.9 14,690 ▲250K 15,290 ▲250K
Trang sức 99.99 14,700 ▲250K 15,300 ▲250K
Cập nhật: 13/11/2025 13:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,513 ▲18K 1,533 ▲18K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,513 ▲18K 15,332 ▲180K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,513 ▲18K 15,333 ▲180K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 149 ▼1323K 1,515 ▲18K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 149 ▼1323K 1,516 ▲18K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,475 ▲18K 1,505 ▲18K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,451 ▼128277K 14,901 ▼132327K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 105,536 ▲1350K 113,036 ▲1350K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 95 ▼93681K 1,025 ▼100251K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 84,464 ▲1098K 91,964 ▲1098K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 804 ▼78547K 879 ▼85972K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 55,415 ▲751K 62,915 ▲751K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,513 ▲18K 1,533 ▲18K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,513 ▲18K 1,533 ▲18K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,513 ▲18K 1,533 ▲18K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,513 ▲18K 1,533 ▲18K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,513 ▲18K 1,533 ▲18K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,513 ▲18K 1,533 ▲18K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,513 ▲18K 1,533 ▲18K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,513 ▲18K 1,533 ▲18K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,513 ▲18K 1,533 ▲18K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,513 ▲18K 1,533 ▲18K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,513 ▲18K 1,533 ▲18K
Cập nhật: 13/11/2025 13:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16752 17022 17596
CAD 18284 18560 19175
CHF 32356 32739 33384
CNY 0 3470 3830
EUR 29918 30191 31213
GBP 33784 34173 35115
HKD 0 3262 3463
JPY 163 167 173
KRW 0 16 18
NZD 0 14589 15178
SGD 19719 20000 20514
THB 730 794 847
USD (1,2) 26093 0 0
USD (5,10,20) 26135 0 0
USD (50,100) 26163 26183 26381
Cập nhật: 13/11/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,157 26,157 26,381
USD(1-2-5) 25,111 - -
USD(10-20) 25,111 - -
EUR 30,147 30,171 31,321
JPY 167.32 167.62 174.63
GBP 34,206 34,299 35,118
AUD 17,037 17,099 17,545
CAD 18,519 18,578 19,109
CHF 32,708 32,810 33,502
SGD 19,883 19,945 20,567
CNY - 3,663 3,761
HKD 3,341 3,351 3,434
KRW 16.64 17.35 18.63
THB 779.46 789.09 839.51
NZD 14,625 14,761 15,109
SEK - 2,749 2,829
DKK - 4,033 4,150
NOK - 2,578 2,654
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,980.97 - 6,709.57
TWD 767.54 - 924.26
SAR - 6,928.98 7,269
KWD - 83,764 88,589
Cập nhật: 13/11/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,150 26,151 26,381
EUR 29,918 30,038 31,171
GBP 33,919 34,055 35,022
HKD 3,321 3,334 3,441
CHF 32,402 32,532 33,438
JPY 166.02 166.69 173.73
AUD 16,929 16,997 17,536
SGD 19,869 19,949 20,490
THB 792 795 830
CAD 18,459 18,533 19,071
NZD 14,629 15,137
KRW 17.21 18.79
Cập nhật: 13/11/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26153 26153 26381
AUD 16935 17035 17960
CAD 18459 18559 19574
CHF 32591 32621 34207
CNY 0 3670.2 0
CZK 0 1186 0
DKK 0 4045 0
EUR 30083 30113 31838
GBP 34070 34120 35883
HKD 0 3390 0
JPY 166.79 167.29 177.82
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2592 0
NZD 0 14705 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2773 0
SGD 19854 19984 20717
THB 0 758.1 0
TWD 0 850 0
SJC 9999 15130000 15130000 15330000
SBJ 13000000 13000000 15330000
Cập nhật: 13/11/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,184 26,234 26,381
USD20 26,184 26,234 26,381
USD1 26,184 26,234 26,381
AUD 16,980 17,080 18,191
EUR 30,239 30,239 31,656
CAD 18,414 18,514 19,825
SGD 19,946 20,096 20,664
JPY 167.29 168.79 173.35
GBP 34,184 34,334 35,105
XAU 15,128,000 0 15,332,000
CNY 0 3,560 0
THB 0 795 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 13/11/2025 13:00