Trung Quốc đối mặt cú sốc kinh tế thứ hai vì nCoV

21:41 | 23/03/2020

271 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Sau cú sốc đầu tiên khi sản xuất đình trệ vì Covid-19, kinh tế Trung Quốc có thể chịu "đòn giáng" thứ hai vì nhu cầu hàng hóa giảm sút.

Hồi cuối tháng hai, ban lãnh đạo tập đoàn đường ống công nghiệp Rifeng của Trung Quốc lo lắng về tình trạng sụt giảm đơn hàng trong nước sau khi lệnh phong tỏa chống Covid-19 gây khó khăn cho các hoạt động sản xuất và bán lẻ, khiến nền kinh tế lớn thứ hai thế giới chao đảo.

Sau chưa đầy một tháng, đơn hàng trong nước bắt đầu tăng trở lại và các nhà máy trên khắp Trung Quốc đang hoạt động gần với công suất thực tế. Nhưng tập đoàn Rifeng giờ đây lại có những nỗi lo mới.

Trung Quốc đối mặt cú sốc kinh tế thứ hai vì nCoV
Công nhận giúp neo tàu chở container tại một cảng ở Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, hồi tháng hai. Ảnh: Reuters.

Biện pháp phong tỏa diện rộng mà Trung Quốc từng sử dụng đang được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới, khi các nước nỗ lực ngăn chặn sự lây lan của nCoV vốn đang tấn công vào huyết mạch nền kinh tế toàn cầu.

"Chúng tôi đã trở lại công suất 100% để phục vụ nhu cầu nước ngoài, nhưng đáng buồn là thị trường đã đóng hoặc chuẩn bị đóng cửa", Jasong Cheng, giám đốc phụ trách mảng kinh doanh nước ngoài của Rifeng, cho biết và thêm rằng các khách hàng ở Pháp, Italy và Mỹ đã yêu cầu hoãn thanh toán hoặc hủy đơn hàng.

"Chúng tôi đang đối mặt tình huống như năm 2008, 2009, khi doanh thu từ nước ngoài chỉ bằng một nửa so với năm trước đó", Cheng nói. "Kịch bản tương tự đang diễn ra, tôi khá chắc về điều này".

Nhiều doanh nghiệp ở Trung Quốc đang chuẩn bị tâm lý để đón nhận cú sốc kinh tế thứ hai từ Covid-19, đại dịch đã làm tê liệt mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong hai tháng đầu năm 2020.

Cú sốc đầu tiên đã khiến "cỗ máy sản xuất" của Trung Quốc bị đình trệ, nhưng các nhà kinh tế học lo ngại cú sốc về nhu cầu hàng hóa hiện nay còn nguy hiểm hơn bởi nó sẽ làm rung chuyển nền kinh tế trong những tháng tới.

Khi các biện pháp phong tỏa ngày càng được áp dụng rộng rãi, đặc biệt là tại châu Âu, xuất khẩu của Trung Quôc sẽ chịu tổn thương. Dữ liệu hải quan cho thấy xuất khẩu nước này đã giảm 17,2% trong tháng một và tháng hai, nhưng giới phân tích cảnh báo điều tồi tệ nhất vẫn ở phía trước.

"Khi nhiều nước đối mặt với dịch bệnh và thị trường tài chính thế giới chưa ổn định, người tiêu dùng và các công ty có thể vẫn không ngớt lo lắng, làm giảm nhu cầu toàn cầu đối với hàng hóa Trung Quốc trong khi nền kinh tế nước này đang hoạt động trở lại", các chuyên gia kinh tế tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hồi tuần trước đánh giá.

Stanley Szeto, giám đốc điều hành công ty dệt may cao cấp Lever Style, thường xuyên di chuyển để gặp gỡ khách hàng và thăm các cơ sở sản xuất, nhưng gần đây ông không đi đâu. Từ trụ sở công ty ở Hong Kong, ông chứng kiến những cú sốc kinh tế giáng đòn lên doanh nghiệp của mình mà không thể làm gì.

Ký hợp đồng với các nhà máy ở Trung Quốc và nhiều nơi khác tại châu Á, Lever Style sản xuất hàng may mặc cho hàng loạt ông lớn ngành thời trang như Hugo Boss, Ted Baker, Fila hay All Saints. Nhưng vì người tiêu dùng ở phương Tây ngừng mua sắm, nhu cầu đối với hàng may mặc cũng bốc hơi.

"Chúng tôi đang hoạt động ở công suất 70, 80, 90% tùy từng cơ sở nhưng như vậy là quá nhiều bởi nhu cầu đang giảm mạnh", Szeto cho hay. "Chúng tôi làm việc trong ngành thời trang và rất nhiều khách hàng của chúng tôi đã phải đóng cửa hàng".

Sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, khách hàng của Szeto cố đặt hàng trước vì lo sợ tình trạng tắc nghẽn chuỗi cung ứng sẽ giết chết họ, nhưng giờ đây, tình thế thay đổi.

"Họ từng lo lắng nói rằng 'chúng tôi cần hàng hóa, chúng tôi sợ hàng sẽ bị chậm khi đưa ra khỏi Trung Quốc'", Szeto cho biết. "Nhưng chỉ trong tuần trước, giọng điệu đã thay đổi hoàn toàn. Họ nói giờ chúng tôi không cần những hàng hóa này nữa, chúng tôi có thể hủy đơn. Vậy nên khi phía cung cấp đã hoạt động trơn tru trở lại, mối lo đặt ra là có quá nhiều cung nhưng lại không đủ cầu".

Khó khăn thứ hai nằm ở câu chuyện nhu cầu trong nước. Dưới tác động của dịch bệnh và nhiều tuần ngưng trệ của nền kinh tế Trung Quốc, hàng loạt doanh nghiệp đang đối diện nguy cơ phá sản. Khoảng 100 công ty bất động sản Trung Quốc đã nộp đơn xin phá sản vào tháng một và tháng hai.

Đầu tuần trước, theo khảo sát, tỷ lệ thất nghiệp của Trung Quốc đã tăng từ 5,2% lên 6,2%, tương đương 5 triệu việc làm bị mất đi. Con số trên không bao gồm các lao động nhập cư không thể quay trở lại làm việc vì lệnh phong tỏa và những người không có hợp đồng chính thức tại nơi họ làm việc.

Công ty nghiên cứu Gavekal Dragonomics có trụ sở ở Bắc Kinh ước tính Covid-19 có thể khiến lao động nhập cư Trung Quốc thiệt hại tổng cộng 115 tỷ USD tiền lương. Khi không có thu nhập, nhu cầu mua sắm của họ cũng không còn, tạo ra lỗ hổng lớn đối với nhu cầu trong nước ở thời điểm mà doanh số bán lẻ đã sụt giảm 20,5% trong tháng một và tháng hai.

"Tôi lo rằng sẽ rất khó khôi phục nhu cầu mua sắm. Tình trạng này sẽ trở nên trầm trọng đến mức ngay cả những người không bị mất thu nhập cũng sẽ phản ứng với cú sốc bằng cách tiêu dùng ít hơn", Michael Pettis, giáo sư tài chính tại Đại học Bắc Kinh, nhận xét.

Biggi Stefansson, chủ sở hữu IS Seafood, một nhà phân phối hải sản từ Trung Quốc tới Iceland có trụ sở tại Thượng Hải, cho biết kết quả kinh doanh hồi tháng hai đã giảm 94% so với cùng kỳ năm ngoái. Ông hy vọng tình hình sẽ khả quan hơn trong những tháng tới, nhưng tăng trưởng là điều bất khả thi.

"Mọi người muốn ra ngoài nhưng họ vẫn sợ. Đây là hành vi mới và phải mất một thời gian để khôi phục như trước đây", Stefansson nói.

Công ty chuyên tìm nguồn cung và phân phối thịt lợn USource ở Bắc Kinh cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự. Kết quả kinh doanh hồi tháng hai giảm 90% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trung Quốc đối mặt cú sốc kinh tế thứ hai vì nCoV
Hành khách trên tàu điện ngầm tại Thượng Hải ngày 9/3. Ảnh: Reuters.

"Nhu cầu đối với hàng hóa đang hồi phục rất chậm. Tuần qua khá khả quan nhưng không ai dám kỳ vọng về tăng trưởng trong năm nay", William Kerins, giám đốc USource, cho hay. "Một nửa dân Bắc Kinh bị giảm lương, nếu không bị sa thải".

Theo kết quả khảo sát của công ty tài chính Rong360.com ở Bắc Kinh, 64% số người được hỏi nói họ sẽ hạn chế chi tiêu sau khi dịch qua đi và 31,4% nói không có kế hoạch tăng chi tiêu.

"Niềm tin của người tiêu dùng đang tăng lên nhưng chưa thể bằng mức trước khủng hoảng", Josh Gardner, người sáng lập công ty nghiên cứu thị trường Kung Fu Data, nhận định.

Hầu hết các chuyên gia kinh tế đều dự đoán nền kinh tế Trung Quốc quý này sẽ đi xuống lần đầu tiên kể từ năm 1976. Một cuộc suy thoái toàn cầu có khả năng xảy ra và với việc nCoV đang đe dọa cả thế giới, rủi ro với nền kinh tế Trung Quốc chắc chắn sẽ không giảm bớt.

"Đây là cú sốc ở nhiều cấp độ, đây là một cuộc suy thoái", Alicia Garcia Herrero, nhà kinh tế trưởng phụ trách khu vực châu Á - Thái Bình Dương của ngân hàng đầu tư Natixis, đánh giá. "Trung Quốc giờ đây sẽ khác, thế giới cũng sẽ khác", bà nhấn mạnh.

Theo VNE

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,770 11,340
Trang sức 99.9 10,760 11,330
NL 99.99 10,770
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,000 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 15:00