Triển vọng sản xuất kinh doanh 2024-2026 của PETRONAS (Kỳ Cuối)

06:00 | 16/08/2024

12,772 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Năm 2024, PETRONAS dự kiến sẽ khoan tổng cộng 99 giếng theo chương trình khoan phát triển, thẩm định và thăm dò.

Bài 6: Điểm vài nét kết quả hoạt động năm 2024

Hoạt động dưới bề mặt và dưới đáy biển là một phần của các hoạt động thượng nguồn, bao gồm tất cả các hoạt động được thực hiện bên dưới giàn đầu giếng

Đối với giàn khoan và thiết bị sửa giếng khoan, triển vọng hoạt động được cung cấp cho tất cả các loại giàn khoan đang hoạt động ở Malaysia, tức là giàn khoan tự nâng (JUR), giàn khoan tiếp trợ nửa nổi nửa chìm (TADR), giàn khoan bán chìm và tàu khoan.

Triển vọng sản xuất kinh doanh 2024-2026 của PETRONAS (Kỳ Cuối)

Hiện các cụm thiết bị sửa giếng khoan dầu khí (HWU) được sử dụng để thực hiện các công việc sửa chữa cho công việc tái hoàn thiện và bỏ dở và có thể hoạt động như một giải pháp thay thế cho các giàn khoan nêu trên, bao gồm: (i) Đối với JUR dùng để thực hiện khoan thăm dò, phát triển và các giếng mồ côi/bỏ hoang. Ứng dụng của JUR là loại giàn khoan ngoài khơi phổ biến nhất bởi do tính linh hoạt của nó và thường được sử dụng để khoan ở vùng nước nông với các dịch vụ hồ trợ như tàu hỗ trợ, hàng hóa dạng ống của đường ống để khai thác dầu và khí đốt (Oil Country Tubular Goods-OCTG), dịch vụ khoan của bên thứ ba, ví dụ như dung dịch khoan, khoan định hướng (DD)/đo lường trong khi khoan (MWD)/ghi nhật ký trong khi khoan (LWD), đầu giếng, mũi khoan, xi-măng, “câu cá” là quá trình lấy lại công cụ bị kẹt hoặc bị hỏng hoặc bị tháo rời trong giếng và dây công cụ “slickline” được sử dụng để đặt hạ các công cụ xuống giếng dầu hoặc khí đốt để thực hiện công việc bảo trì được chỉ định dưới giếng. (ii) Đối với TADR để thực hiện phát triển và thường được sử dụng khoan ở vùng nước sâu hơn với các hạn chế về không gian/tải trọng/khả năng tiếp cận, ví dụ như giàn khoan dầu spar nước sâu, kết cấu nổi theo phương đứng, được neo cố định xuống đáy biển, có khả năng chịu tải giàn khoan (Tension Leg Platform-TLP), v.v. (iii) Đối với giàn khoan bán chìm chuyên phục vụ việc khoan thăm dò là loại giàn khoan ổn định nhất, thường được sử dụng để khoan ở vùng nước sâu và/hoặc môi trường khắc nghiệt nhất. (iv) Tàu khoan sử dụng để khoan thăm dò dầu khí và thường được sử dụng để khoan ở vùng nước sâu/siêu sâu cũng như có thể được sử dụng để bảo trì, hoàn thiện và đóng nắp giếng. (v) Cụm thiết bị sửa giếng khoan dầu khí HWU phục vụ việc sản xuất và các giếng bỏ hoang và thường được sử dụng cho các hoạt động chuyển công việc, ví dụ: hoàn thiện lại, sửa chữa giếng, và đóng và hủy giếng (P&A) với sự hỗ trợ của tàu thuyền, xác định dòng dầu, khí và nước trong giếng sản xuất, slickline, đầu giếng, xi-măng, “câu cá”, v.v.

Số lượng giàn khoan: Việc sử dụng tất cả các giàn khoan cho năm 2023 đã được lên kế hoạch, ngoại trừ HWU, nơi mức sử dụng thấp hơn là do tối ưu hóa trong việc thực hiện các hoạt động P&A và công việc theo kế hoạch.Đối với triển vọng giàn khoan từ năm 2024 đến năm 2026 dựa trên mức sử dụng cả năm song con số thực tế có thể thay đổi dựa trên thời lượng và/hoặc mức độ tối ưu hóa của chiến dịch, trì hoãn, hủy dự án, v.v., cụ thể như sau: (i) Kế hoạch 2023 (26 giàn): TADR (4) - JUR (12) - HWU (8)- Bán chìm/Tàu khoan (2 đã ký) song hợp đồng thực tế (24 giàn): JUR (12) - TADR (4) - Bán chìm/Tàu khoan (2) và HWU (6). (ii) Triển vọng kế hoạch ba năm: 2024 (28 giàn) bao gồm: JUR (10 giàn đã ký, 3 giàn chưa ký kết)- giàn TADR (5 đã ký)- Bán chìm/Tàu khoan (2 đã ký)-HWU (6 đã ký, 2 chưa ký); 2025 (28 giàn): JUR (8 đã ký, 6 chưa ký)-TADR (3 đã ký)- Bán chìm/Tàu khoan (1 đã ký)-HWU (6 đã ký, 2 chưa ký); 2026 (26 giàn): JUR (2 đã ký, 6 chưa ký) -TADR (3 chưa ký)- Bán chìm/Tàu khoan (3 chưa ký)-HWU (5 đã ký).

Số lượng giếng năm 2024: Dự kiến hoạt động P&A sẽ tăng đáng kể vào năm 2024 nhằm tôn trọng cam kết của cơ quan quản lý. Năm 2024, dự kiến sẽ khoan tổng cộng 99 giếng theo chương trình khoan phát triển, thẩm định và thăm dò, bao gồm: 74 giếng đã phát triển, 6 giếng đánh giá thẩm định, 19 giếng thăm dò, 17 giếng sửa chữa và 38 đóng và hủy giếng (P&A).

Kỹ thuật- Xây dựng và Dự án

Triển vọng của kỹ thuật, xây dựng và dự án được thể hiện rõ nhất qua các hoạt động liên quan đến các dự án phát triển, tức là chế tạo trên bờ, cung cấp đường ống, lắp đặt trên bờ, nối và vận hành cũng như ngừng hoạt động. Quá trình phát triển dự án thượng nguồn điển hình bao gồm các giai đoạn tổng thầu EPCI (tư vấn, thiết kế - mua sắm thiết bị - xây dựng, vận chuyển thi công lắp đặt) các dự án dầu khí ngoài khơi.

Danh mục dự án sau đây giới thiệu các cơ hội đầu tư dồi dào ở vùng biển Malaysia trong thời gian dài hơn. Một lượng lớn các dự án được xem xét liên tục và nghiêm ngặt để hiện thực hóa một loạt các dự án khả thi và hiệu quả về mặt kinh tế nhằm đảm bảo sản xuất bền vững. Các mỏ giếng sẽ được phát triển bao gồm các mỏ cận biên, tài sản đã hết hạn sử dụng, các mỏ có chất gây ô nhiễm cao, hồ chứa phức tạp và các mỏ bị mắc cạn mang lại cơ hội cho các nhà đầu tư biến dự án trở nên khả thi thông qua các giải pháp đổi mới, đột phá và hiệu quả về mặt chi phí. Đây là một trò chơi thích hợp có thể tạo ra một không gian thị trường để kinh doanh có lợi nhuận và bền vững. Cụ thể: (i) Mỏ giếng cần phát triển: 1 dự án mỏ xanh, 7 dự án mỏ nâu. (ii) Quy hoạch dự án: 1 dự án mỏ xanh, 3 dự án mỏ nâu. (iii) Mô hình hóa địa chất và bể hồ chứa: 13 dự án mỏ xanh, 4 dự án mỏ nâu. (iv) Thiết kế cơ sở ý tưởng: 1 dự án mỏ xanh, 10 dự án mỏ nâu. (v) Thiết kế kỹ thuật front-end (FEED): 3 dự án mỏ xanh, 0 dự án mỏ nâu. (vi) Kế hoạch phát triển mỏ được phê duyệt thực hiện: 13 dự án mỏ xanh, 15 dự án mỏ nâu.

Chế tạo lắp đặt ngoài khơi: Triển vọng chế tạo ngoài khơi được cung cấp cho các công trình cố định và nổi, với thực tế hoặc theo kế hoạch ngày trao hợp đồng làm dấu hiệu bắt đầu hoạt động chế tạo, lắp đặt, bao gồm: (i) Cấu trúc kết cấu cố định-Giàn đầu giếng/Giàn xử lý trung tâm: Được sử dụng để chứa đầu giếng và máy móc khai thác dầu khí từ đáy biển và làm giàn bệ cho các hoạt động khoan với sự thiết kế để bao gồm một boong tích hợp, hệ thống tiện ích, hệ thống đầu giếng, sàn đỗ máy bay trực thăng và các thiết bị khoan. Giàn xử lý trung tâm (CPP): thường được sử dụng để tiếp nhận và xử lý hydrocarbon được chiết xuất trước khi đưa vào bờ hoặc sang mạn qua tàu chở dầu và thường đóng vai trò là trung tâm cho toàn bộ tổ hợp mỏ giếng. Hiện có 5 dự án chế tạo, lắp đặt cơ sở dầu khí ngoài khơi Malaysia được ký kết hợp đồng theo thỏa thuận khung chế tạo, lắp đặt (FA) với tổng công suất hàng năm là 280.000 tấn. Hiện những cơ sở dự án mỏ giếng dầu khí nằm ở Klang, Lumut, Pasir Gudang (03) và ở Kuching (02). (ii) Kết cấu thiết bị nổi: Kho lưu trữ nổi đề cập đến các cấu trúc không cố định liên quan đến quá trình xử lý và/hoặc lưu trữ hydrocarbon, tức là kho nổi, xử lý, chứa và xuất dầu (FPSO) là tàu sản xuất, lưu trữ và bốc dỡ nổi FPSO được sử dụng để xử lý hydrocarbon và cơ sở lưu trữ dầu trước khi được chất lên tàu chở dầu để vận chuyển vào bờ, kho nổi chứa dầu khí, được sử dụng để lưu trữ dầu (không có hệ thống xử lý dầu-FSO) và giàn xử lý di động là cấu trúc nổi chuyên dùng tự nâng phục vụ thăm dò, khai thác và hoạt động trên biển (MOPU). Tất cả các kết cấu thiết bị nổi trên được sử dụng làm cơ sở sản xuất có thể di dời, dịch chuyển thường để xuất hydrocarbon khỏi các mỏ giếng dầu và khí đốt cận biên hoặc biệt lập mà không có kết nối với các cơ sở xuất khẩu (đường ống hoặc cần phải thực hiện việc tie-back giếng khoan và lắp đặt cây thông đầu giếng) trong vùng lân cận. (iii) Các dịch vụ liên kết: Các dịch vụ liên kết bao gồm kỹ thuật, kết cấu thép/vật liệu rời, cung cấp thiết bị (ví dụ như cơ khí, điện, dụng cụ, bảo trì trạm, v.v.), xưởng chế tạo, nhà máy đóng tàu, vận chuyển và lắp đặt, đấu kết nối và vận hành, giám định và vận hành bảo hành và bảo trì hàng hải (O&M).

Hiện số lượng cấu trúc thiết bị chứa nổi được chế tạo và dự kiến thi công chế tạo, giai đoạn 2023 – 2026, cụ thể: Năm 2023: MOPU/FPSO/FSO (0); năm 2024: MOPU (1 chưa ký hợp đồng), FPSO/FSO (1 chưa ký hợp đồng); năm 2025: FPSO/FSO (1 chưa ký hợp đồng); năm 2026: MOPU/FPSO/FSO (0). Tất cả các yêu cầu chế tạo, thi công lắp đặt trong vòng hai năm tới đây vẫn chưa được ký hợp đồng. ESG và nền kinh tế vững mạnh là những ưu tiên chính trong lĩnh vực của các bên liên quan khác nhau trong việc duy trì giấy phép hoạt động để theo đuổi các dự án tàu nổi mới. Tất cả những tiến bộ công nghệ cho các giải pháp carbon thấp hơn liên tục được khai thác trong cộng đồng những đội tàu nổi nhằm hỗ trợ mục tiêu NZCE 2050. Hiện các nhà điều hành không ngừng tìm kiếm những cách thức mới để ký kết hợp đồng với những người chơi có năng lực và cải thiện khả năng thanh toán của các hợp đồng của họ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng về đội tàu nổi tại chỗ và theo kịp xu hướng thị trường. Thị trường đội tàu nổi tại chỗ đem lại cơ hội lớn cho những người mới tham gia mở rộng dịch vụ và cung cấp của họ trong các dự án quy mô trung bình song kém cạnh tranh hơn so với các dự án lớn ở nơi khác.

Kết cấu cấu trúc dưới đáy biển: Cấu trúc dưới biển là các công trình nằm dưới đáy biển, hoàn toàn trái ngược so với cấu trúc trên bề mặt nước. Dầu mỏ được khai thác từ đáy biển và sau đó được “tie-back” vào giàn sản xuất hiện có bằng cách sử dụng hệ thống đường dây rốn và ống đứng dưới biển (SURF) kết nối các cơ sở sản xuất dưới biển với các hệ thống trên mặt, đóng vai trò quan trọng trong việc khai thác và vận chuyển hydrocarbon từ đáy biển đến các giàn khoan và bờ biển. Hiện các cấu trúc đáy biện thường được sử dụng để cung cấp kết nối an toàn và hiệu quả từ các giàn khoan và tàu bên trên tới giàn đầu giếng và máy bơm dưới đáy biển và ngược lại để khai thác dầu khí đáng tin cậy từ các mỏ giếng dưới biển.

SURF là đường dây rốn, ống đứng và ống đứng dưới biển (SURF), trong đó bao gồm các giếng đã hoàn thiện dưới biển, cây thông đầu giếng, hệ thống đường dây cáp nối với đường ống ngầm dưới biển, cầu nối, hệ thống rốn và ống đứng cũng như thiết bị dưới biển để vận hành giếng. Hiện số lượng kết cấu thiết bị nổi được chế tạo năm 2023 theo kế hoạch/thực tế triển khai (2/2) cũng như dự kiến triển vọng 3 năm tới (2024-2025-2026) lần lượt là chưa ký hợp đồng (2) và các năm 2025 và năm 2026 (0).

Bảo trì cơ sở vật chất tổng hợp

Bảo trì, xây dựng và sửa chữa dưới đáy biển: Bảo trì, xây dựng và sửa chữa ngoài khơi (MCM) bao gồm các hoạt động liên quan đến sửa chữa và bảo trì các cơ sở ngoài khơi hiện có được thể hiện bằng đơn vị giờ công vì các hoạt động này sử dụng nhiều lao động. MCM bao gồm hai loại hoạt động: (i) Bảo trì theo lịch trình: Các hoạt động theo kế hoạch. (ii) Bảo trì khắc phục: Các hoạt động ngoài kế hoạch phát sinh từ các tình huống không lường trước được cùng với các dịch vụ liên quan như cung cấp tàu, dịch vụ kiểm định, nổ mìn, dịch vụ sơn, v.v.

Dịch vụ dưới nước: Dịch vụ dưới nước bao gồm các hoạt động kiểm tra, bảo trì và sửa chữa được thực hiện đối với các công trình dưới nước như kiểm tra vỏ giàn, kiểm tra đường ống ngoài khơi, khảo sát và loại bỏ mảnh vỡ với mục đích lập kế hoạch và tối ưu hóa nguồn lực. Hiện các hoạt động kiểm tra, sửa chữa và bảo trì (IRM) để đảm bảo tính liên tục của dịch vụ, sự an toàn và tính toàn vẹn của các công trình dưới nước, ví dụ như ống chống giàn khoan, đường ống, can thiệp dưới đáy biển, v.v. với các dịch vụ liên quan như tàu lặn và hỗ trợ, hệ thống lặn bão hòa, phương tiện điều khiển từ xa (ROV) và nhóm quản lý dự án (PMT), v.v.

Quay vòng nhà máy: Quay vòng nhà máy là kế hoạch ngừng hoạt động định kỳ của một nhà máy xử lý hoặc đơn vị xử lý để thực hiện công việc (bao gồm nhưng không giới hạn) để bảo trì thiết bị, kiểm tra, sửa chữa, thay thế, thay chất xúc tác, v.v. của nhà máy nhằm đảm bảo tính toàn vẹn và đạt được sự an toàn, hoạt động đáng tin cậy cho đến lần tắt máy theo kế hoạch tiếp theo.

Hiện số lần quay vòng của các cơ sở của PETRONAS thực hiện năm 2023 thấp hơn một chút do bị hoãn lịch trình. Dự kiến ​​triển vọng tích cực trong ba năm tới, đặc biệt là những năm 2024 và 2025 với số lượng vòng quay tăng đáng kể do yêu cầu tại Bán đảo Malaysia (Bờ biển phía Đông), các bang Pengerang và Sarawak. Mặc dù phần lớn gói cơ khí chính đã được ký kết hợp đồng nhưng vẫn có cơ hội tham gia vào các phạm vi như thay đổi chất xúc tác, cung cấp thiết bị, dịch vụ hỗ trợ và các dịch vụ khác. PETRONAS đang bắt tay vào sáng kiến ​​tự điều chỉnh (SR) dự kiến ​​sẽ giảm số lượng chứng nhận SR sau quay vòng trong khi chuyển trọng tâm sang bảo trì.

Hậu cần của PETRONAS

Hiện các dịch vụ hậu cần bao gồm đội vận tải đường bộ, cơ sở cung ứng, nhà kho, hàng không và tàu hỗ trợ ngoài khơi (OSV), cung cấp tàu kéo xử lý neo (AHTS) được sử dụng để hỗ trợ hoạt động xử lý neo, kéo và vận chuyển vật tư đến và đi từ các giàn khoan/giàn khoan ngoài khơi, các tàu cung cấp giàn khoan (PSV)/tàu cung cấp thẳng (SSV) vận chuyển thiết bị, vật tư ra giàn khoan ngoài khơi, đội tàu Fast Crew Boat (FCB) chuyên vận chuyển thủy thủ đoàn tới các cơ sở ngoài khơi và các giàn khoan, đội xuồng công tác/sà lan công trình sử dụng làm chỗ ở cho người lao động, các loại tàu đa dụng (GPV)/tàu dự bị (NHNN) có nhiệm vụ trực chờ, hỗ trợ, cứu nạn, khẩn cấp, landing Craft Tank (LCT) chuyên vận chuyển thiết bị, vật tư tới giàn/giàn khoan ngoài khơi.

Việc sử dụng số lượng tàu hỗ trợ hoạt động sản xuất và dự án sản xuất liên quan trong năm 2023 của PETRONAS vẫn theo kế hoạch và nhu cầu dự kiến ​​sẽ ổn định vào năm 2024. Đối với triển vọng trong ba năm tới cho thấy nhu cầu về tàu hỗ trợ hoạt động sản xuất giảm nhẹ so với các năm trước do có thể sửa đổi triết lý hoạt động sản xuất, tức là giàn khoan tự động không người điều khiển. Hiện các chủ đội tàu OSV khi bắt tay vào đổi mới đội tàu nên xem xét các công nghệ tiết kiệm nhiên liệu bao gồm tàu ​​chạy bằng điện diesel với tàu chạy pin (hybrid) để giảm tổng chi phí vận hành cho người thuê tàu. Dự án Safina Giai đoạn 2 nhằm mục đích đóng mới các tàu hỗ trợ ngoài khơi mới thay thế các tàu cũ, dự kiến ​​sẽ bắt đầu thực hiện hợp đồng vào Quý 3/2024.

Năm 2023, số lượng tàu hỗ trợ hoạt động khoan và dự án (giếng) trên thực tế đạt thấp hơn do hoạt động tối ưu hóa tàu được thực hiện trên nhiều dự án với triển vọng trong ba năm tới đây cho thấy nhu cầu ổn định hàng năm đối với các dự án hỗ trợ tàu và hoạt động khoan. Tình trạng thiếu OSV treo cờ Malaysia để hỗ trợ khoan và dự án dự kiến ​​sẽ tiếp tục xảy ra trong thời gian tới song không bao gồm các yêu cầu của tàu đối với các hoạt động HUC, MCM và dịch vụ dưới nước, EPCC và EPCIC sẽ được cung cấp riêng.

Hóa chất

Hóa chất chuyên dụng và được sử dụng để tăng tốc các quy trình của nhà máy, tối đa hóa độ tin cậy của tài sản và/hoặc cải thiện năng suất. Hóa chất được tiêu chuẩn hóa và sử dụng phổ biến trong quá trình và hoạt động cung cấp nhân lực, vật tư, vật tư tiêu hao, thiết bị và phương tiện cần thiết để cung cấp dịch vụ hóa chất. Các yếu tố chính quyết định giá hóa chất là nguyên liệu thô và chi phí hậu cần.

Hiện các yếu tố chính thúc đẩy nhu cầu hóa chất của PETRONAS phụ thuộc vào tài sản cũ, hoạt động quay vòng và ngừng hoạt động (TASD), dự án mới, nhà máy mới đang hoạt động, tuổi thọ và tuổi thọ của hóa chất, v.v. Dầu gốc, chất xúc tác, chất ức chế ăn mòn và chất diệt khuẩn, glycol, dầu và chất bôi trơn và hóa chất sản xuất là những nguyên nhân chính gây ra chi phí hóa chất. Việc tiêu thụ hóa chất có thể không rộng rãi nhưng cần phải hợp tác với các bên khác để tiến bộ công nghệ hóa chất, không chỉ giới hạn ở việc phân phối sản phẩm mà còn trong quản lý sản phẩm, tính bền vững, v.v. Hóa chất và/hoặc dịch vụ hóa chất giúp kéo dài tuổi thọ của tài sản, tối ưu hóa và/hoặc cải thiện độ tin cậy và năng suất là những lợi thế.

Hiện ngày càng có nhiều công ty quản lý tính bền vững để cải thiện quy trình, theo đuổi tăng trưởng và gia tăng giá trị cho công ty thay vì chỉ tập trung vào danh tiếng. Nghiên cứu cho thấy các công ty hướng đến sự bền vững có mức định giá cao hơn, do đó, cách tiếp cận toàn diện đối với ESG không phải là một lựa chọn về lâu dài. Hóa chất được tiêu thụ ở cả hoạt động kinh doanh thượng nguồn và hạ nguồn, chủ yếu trong các hoạt động bảo trì và vận hành.

Tỷ lệ mua số lượng hóa chất: Tất cả các yêu cầu về hóa chất cho giai đoạn 2024-2026 đã được ký kết hợp đồng, trong đó bao gồm: (i) Nồi hơi và hệ thống nước làm mát: Yêu cầu liên tục đối với việc mua hàng và dịch vụ liên quan đến hệ thống nước sôi và làm mát trên khắp các đơn vị vận hành PETRONAS (OPU) nhằm đảm bảo tính toàn vẹn/độ tin cậy của tài sản. Việc tiêu thụ hóa chất để xử lý nước phụ thuộc vào tình trạng chất lượng nước trong nồi hơi và tháp giải nhiệt. (ii) Chất xúc tác: Yêu cầu liên tục đối với việc mua hàng và các dịch vụ liên quan đến chất xúc tác và phương tiện nội bộ trên khắp các OPU do có nhiều yêu cầu thay đổi hoặc bổ sung trong năm 2024 đến 2026. (iii) Hóa chất toàn vẹn (chất ức chế ăn mòn và chất diệt khuẩn): Yêu cầu liên tục trong việc đảm bảo tài sản tính toàn vẹn/độ tin cậy, đặc biệt là đường ống, thiết bị và đường ống khỏi bị ăn mòn/rò rỉ cũng như nhu cầu bổ sung về hệ thống nước làm mát để loại bỏ nhiệt khỏi quy trình hoặc thiết bị. (iv) Sản xuất hóa chất: Triển vọng sẽ phụ thuộc vào dự báo sản lượng dầu thô và hướng tới tương lai phát thải carbon thấp hơn và các cuộc khủng hoảng địa chính trị hiện tại ảnh hưởng đến cung và cầu. (v) PETRONAS đang bắt tay vào sử dụng Hệ thống quản lý hóa chất điện tử (eCHEMS), Hệ thống kỹ thuật số doanh nghiệp PETRONAS HSE về quản lý hóa chất.

Tuấn Hùng

PETRONAS