Tin tức kinh tế ngày 10/8: Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tăng 17 bậc sau 3 năm

06:21 | 11/08/2019

749 lượt xem
|
(PetroTimes) - Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tăng 17 bậc sau 3 năm; Mỗi tháng một vụ kiện với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam; Cherry Mỹ nhập ồ ạt vào Việt Nam chỉ hơn 200 nghìn đồng một kg; Phát hiện hàng chục tấn phế liệu ngụy trang kỹ trong container… là những tin kinh tế đáng chú ý ngày 10/8.
tin tuc kinh te ngay 108 chi so doi moi sang tao cua viet nam tang 17 bac sau 3 namTin tức kinh tế ngày 9/8: Phát hành trái phiếu, doanh nghiệp sẽ thêm rủi ro
tin tuc kinh te ngay 108 chi so doi moi sang tao cua viet nam tang 17 bac sau 3 namDoanh nghiệp đăng ký mới đóng góp 870.000 nghìn tỷ đồng cho nền kinh tế
tin tuc kinh te ngay 108 chi so doi moi sang tao cua viet nam tang 17 bac sau 3 namPhát triển kinh tế nhanh để tránh tụt hậu

Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tăng 17 bậc sau 3 năm

Theo báo cáo được tổ chức WIPO công bố, chỉ số GII năm 2019 của Việt Nam tiếp tục cải thiện vị trí, tăng 3 bậc, lên vị trí 42 trên 129 quốc gia/nền kinh tế được xếp hạng so với năm 2018. Thứ hạng này đã cải thiện 17 bậc so với xếp hạng năm 2016 và đưa Việt Nam vươn lên xếp thứ nhất trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp.

Theo báo cáo được tổ chức WIPO công bố, chỉ số GII năm 2019 của Việt Nam tiếp tục cải thiện vị trí, tăng 3 bậc, lên vị trí 42 trên 129 quốc gia/nền kinh tế được xếp hạng so với năm 2018. Thứ hạng này đã cải thiện 17 bậc so với xếp hạng năm 2016 và đưa Việt Nam vươn lên xếp thứ nhất trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp. Quan trọng hơn, Việt Nam có sự tiến bộ ở cả nhóm chỉ số đầu vào (tăng 2 bậc so với năm 2018) và đầu ra (tăng 4 bậc so với năm 2018), cũng như có điểm số cao trong cả 7 trụ cột, đều cao hơn mức trung bình.

tin tuc kinh te ngay 108 chi so doi moi sang tao cua viet nam tang 17 bac sau 3 nam
Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tăng 17 bậc sau 3 năm

Bộ Khoa học và Công nghệ đánh giá, kết quả chỉ số GII năm 2019 là minh chứng quan trọng khẳng định hiệu quả chỉ đạo điều hành quyết liệt, toàn diện của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương trong việc xây dựng và triển khai các giải pháp đồng bộ, thiết thực nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia.

Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản truyền đạt ý kiến của Thủ tướng Chính phủ về xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam năm 2019.

Thủ tướng Chính phủ ghi nhận những kết quả tích cực trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, công nghệ thông tin đã góp phần tiếp tục cải thiện nâng cao chỉ số Đổi mới sáng tạo của Việt Nam trong bảng xếp hạng chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu.

Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp các bộ, ngành, địa phương có liên quan tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp được giao tại Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 1/1/2019 của Chính phủ nhằm nâng cao bền vững chỉ số xếp hạng của Việt Nam về đổi mới sáng tạo, trong đó tập trung các yếu tố nâng cao chỉ số về thể chế, cơ sở hạ tầng, trình độ phát triển của kinh doanh và cập nhật các chỉ số còn thiếu trong bảng xếp hạng chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu.

Nợ nước ngoài giảm rất mạnh, tốc độ tăng nợ rất thấp

Bộ Tài chính cho biết, đến cuối năm 2017, nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ở mức 48,9%; đến 31.12.2018 giảm còn khoảng 46%, trong đó cơ cấu nợ nước ngoài quốc gia đều giảm.

Cụ thể, nợ nước ngoài của Chính phủ còn 19,3% GDP, nợ nước ngoài của Chính phủ bảo lãnh còn 4,4% GDP, nợ nước ngoài tự vay tự trả của doanh nghiệp còn 22,3% GDP. Tỷ lệ trả nợ so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ khoảng 25%, bảo đảm các quy định và thông lệ quốc tế.

Tuy nhiên, đáng chú ý là trong giai đoạn 2011 - 2017, chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP có xu hướng tăng nhanh, bình quân tăng 16,7%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP theo giá hiện hành là 13%/năm trong cùng giai đoạn.

Với kết quả này, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ khẳng định chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia dưới mức trần được QH cho phép (50%) và đang trong tầm kiểm soát của Chính phủ. Đặc biệt, nợ nước ngoài của Chính phủ giảm rất mạnh, tốc độ tăng nợ rất thấp. Còn nợ nước ngoài Chính phủ bảo lãnh chiếm tỷ trọng nhỏ và xu hướng giảm.

Phó Thủ tướng cho rằng quy mô nợ nước ngoài tăng nhanh chủ yếu là nợ của doanh nghiệp và các tổ chức tài chính, tín dụng theo hình thức tự vay tự trả - hiện chiếm 48,4% tổng nợ nước ngoài quốc gia so với tỷ lệ 25,6% năm 2011 và 40,4% của năm 2016. Việc tăng nhanh nợ nước ngoài theo hình thức tự vay tự trả chủ yếu nằm ở khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (chiếm 76% tổng lượng nợ của doanh nghiệp), tập trung ở một số doanh nghiệp có quy mô lớn.

Để bảo đảm an toàn nợ công nói chung và nợ nước ngoài của quốc gia nói riêng, cũng như ổn định kinh tế vĩ mô, Phó Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành tăng cường điều hành, quản lý nợ theo quy định của pháp luật như Luật Quản lý nợ công, các Nghị quyết chuyên đề của QH, Chính phủ về nợ công nhằm bảo đảm đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế nói chung chứ không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn tự thân của doanh nghiệp, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp nói chung.

Cherry Mỹ nhập ồ ạt vào Việt Nam chỉ hơn 200 nghìn đồng một kg

Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan, quả Cherry của Mỹ nhập vào Việt Nam trong 6 tháng qua đạt hơn 319 tấn, kim ngạch hơn 2,9 triệu USD, bình quân mỗi kg Cherry Mỹ chỉ hơn 209.000 đồng, mức giá chỉ bằng một nửa so với cùng kỳ năm trước.

tin tuc kinh te ngay 108 chi so doi moi sang tao cua viet nam tang 17 bac sau 3 nam
Cherry được bày bán rất nhiều tại các siêu thị, cửa hàng bán hoa quả

Trên thị trường, giá các loại Cherry nhập Mỹ cũng được bán ồ ạt từ siêu thị, cửa hàng lẫn giới kinh doanh online. Mức bán tại Việt Nam được các siêu thị niêm yết giá từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng/kg, vẫn khá đắt so với giá nhập khẩu từ Mỹ về.

Theo một đầu mối kinh doanh mặt hàng trái cây, hiện giá quả Cherry Mỹ đang vào mùa, lại không xuất được đi Trung Quốc nên mới có giá rẻ như vậy ở Việt Nam, mức giá gần 10 USD/kg là rẻ chỉ bằng 1 nửa so với cùng kỳ năm trước.

Hiện thương chiến Mỹ - Trung đang căng thẳng khiến hàng hóa của Mỹ vào thị trường Trung Quốc hạn chế, đặc biệt là nông, hải sản như Cherry, táo... Các loại hoa quả trên bị Trung Quốc áp đặt kiểm soát bằng các phương thức kiểm soát chất lượng, bảo vệ thực vật, dư lượng kháng sinh, nấm, mốc...

Hiện giá bán cherry tại Mỹ (ở Walmart) vào 6,71 USD/ 1,35 kg (2,98 pound), tương đương khoảng 114.000 đồng, tính ra chỉ khoảng 85.000 đồng/kg, mức giá rẻ hơn nhiều so với tại Việt Nam.

Ngoài các loại cherry được nhập về Việt Nam một cách ồ ạt trong thời gian qua, nhiều mặt hàng từ Mỹ nhập vào Việt Nam cũng tăng về lượng và giảm về giá, trong đó cụ thể là thịt bò, thịt gà, tôm hùm; các loại hàng hóa như bông, phế liệu sắt thép...

Tổng giá trị nhập khẩu các mặt hàng thịt như thịt bò, thịt gà, thịt lợn, tôm, sữa các loại khoảng 155 triệu USD, số lượng khoảng 70.000 tấn.

Phát hiện hàng chục tấn phế liệu ngụy trang kỹ trong container

Ngày 10/8, Cục Hải quan TPHCM cho biết, Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1 trực thuộc đơn vị này đã ra quyết định xử phạt Công ty TNHH Thương mại Núi Xanh Việt (xã Tam Phước, TP Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai) 50 triệu đồng và buộc tái xuất toàn bộ hàng hóa vi phạm.

Theo Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1, Công ty Núi Xanh Việt làm thủ tục mở tờ khai hải quan nhập khẩu lô hàng qua cảng Cát Lái khai báo là hạt nhựa.

Qua kiểm tra thực tế, Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1 phát hiện hàng hóa nhập khẩu lại là phế liệu, không đủ điều kiện nhập khẩu theo quy định. Trị giá lô hàng hơn 122 triệu đồng.

Ngoài lô hàng nêu trên, vào cuối tháng 7/2019, Đội thủ tục hàng hóa nhập khẩu - Chi cục Hải quan cảng Sài Gòn khu vực 1 cũng đã kiểm tra 2 container hàng nhập khẩu của Doanh nghiệp tư nhân thương mại Ngọc Anh (quận 6) và phát hiện lô hàng phế liệu số lượng lớn.

tin tuc kinh te ngay 108 chi so doi moi sang tao cua viet nam tang 17 bac sau 3 nam
Phế liệu được ngụy trang trong container

Theo khai báo của doanh nghiệp Ngọc Anh, hàng nhập khẩu gồm hơn 37 tấn nhựa PVC tái sinh dạng hạt, nhiều màu, không đồng đều và nhựa PE tái sinh dạng mảnh. Lô hàng đã được phân luồng vàng (kiểm tra hồ sơ). Tuy nhiên, do nghi vấn nên Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1 đã cho dừng thông quan, chuyển luồng kiểm tra thực tế.

Kết quả cho thấy, ngoài phía đầu container có một số thùng nhựa đựng hạt nhựa tái sinh thì toàn bộ bên trong là phế liệu. Hiện Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1 đang chờ kết quả giám định lô phế liệu trên để xử lý.

Mỗi tháng một vụ kiện với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam

Ông Lê Triệu Dũng, Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương) cho hay, 7 tháng đầu năm 2019, tần suất các vụ kiện phòng vệ thương mại với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vẫn duy trì ở mức độ cao, trung bình 1 vụ/1 tháng.

Điều này xuất phát từ hai phía, cả chủ quan và khách quan. Về mặt khách quan, nhiều nước bắt đầu gia tăng chính sách bảo hộ, dẫn tới các yêu cầu khắt khe hơn, đặc biệt là về quy tắc xuất xứ...Điều này có thể thấy rõ qua một vài vụ việc mà phía Mỹ đang áp dụng đối với hàng Việt Nam.

Cụ thể như, việc Mỹ đang điều tra chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá với thép chống ăn mòn, thép cán nguội của Việt Nam (nhập khẩu nguyên liệu từ Hàn Quốc, Đài Loan) hay xem xét đơn kiện Công ty Minh Phú gian lận thuế với sản phẩm tôm (mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá từ 2005 và kiện trợ cấp năm 2013)...

Ngoài ra, xung đột thương mại Mỹ - Trung cũng đã góp phần làm cho chính sách bảo hộ của không chỉ Mỹ mà nhiều quốc gia trên thế giới cũng bắt đầu thay đổi theo xu hướng "siết chặt".

Về mặt chủ quan, đó là sự thiếu hợp tác của một số doanh nghiệp xuất khẩu dẫn đến việc toàn bộ các doanh nghiệp khác của Việt Nam bị áp mức thuế cao. Ông Lê Triệu Dũng cũng cho rằng, nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về phòng vệ thương mại rất hạn chế và đang làm giảm hiệu quả của việc ứng phó với các vụ kiện của nước ngoài.

Nguyễn Anh

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 149,500 ▼1500K 152,500 ▼1500K
Hà Nội - PNJ 149,500 ▼1500K 152,500 ▼1500K
Đà Nẵng - PNJ 149,500 ▼1500K 152,500 ▼1500K
Miền Tây - PNJ 149,500 ▼1500K 152,500 ▼1500K
Tây Nguyên - PNJ 149,500 ▼1500K 152,500 ▼1500K
Đông Nam Bộ - PNJ 149,500 ▼1500K 152,500 ▼1500K
Cập nhật: 14/11/2025 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,120 ▼130K 15,320 ▼130K
Miếng SJC Nghệ An 15,120 ▼130K 15,320 ▼130K
Miếng SJC Thái Bình 15,120 ▼130K 15,320 ▼130K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 15,020 ▼130K 15,320 ▼130K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 15,020 ▼130K 15,320 ▼130K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 15,020 ▼130K 15,320 ▼130K
NL 99.99 14,350 ▼130K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,350 ▼130K
Trang sức 99.9 14,610 ▼130K 15,210 ▼130K
Trang sức 99.99 14,620 ▼130K 15,220 ▼130K
Cập nhật: 14/11/2025 16:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,512 ▼13K 1,532 ▼13K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,512 ▼13K 15,322 ▼130K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,512 ▼13K 15,323 ▼130K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,487 ▼15K 1,512 ▼15K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,487 ▼15K 1,513 ▼15K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,472 ▼15K 1,502 ▼15K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 144,213 ▼1485K 148,713 ▼1485K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 105,311 ▼1125K 112,811 ▼1125K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 94,796 ▼1020K 102,296 ▼1020K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 84,281 ▼915K 91,781 ▼915K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 80,225 ▲79414K 87,725 ▲86839K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 5,529 ▼50386K 6,279 ▼57136K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,512 ▼13K 1,532 ▼13K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,512 ▼13K 1,532 ▼13K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,512 ▼13K 1,532 ▼13K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,512 ▼13K 1,532 ▼13K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,512 ▼13K 1,532 ▼13K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,512 ▼13K 1,532 ▼13K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,512 ▼13K 1,532 ▼13K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,512 ▼13K 1,532 ▼13K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,512 ▼13K 1,532 ▼13K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,512 ▼13K 1,532 ▼13K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,512 ▼13K 1,532 ▼13K
Cập nhật: 14/11/2025 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16667 16936 17512
CAD 18247 18523 19137
CHF 32680 33064 33709
CNY 0 3470 3830
EUR 30023 30296 31319
GBP 33941 34330 35256
HKD 0 3260 3462
JPY 163 168 174
KRW 0 17 19
NZD 0 14651 15237
SGD 19721 20002 20517
THB 729 793 846
USD (1,2) 26086 0 0
USD (5,10,20) 26128 0 0
USD (50,100) 26156 26176 26378
Cập nhật: 14/11/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,168 26,168 26,378
USD(1-2-5) 25,122 - -
USD(10-20) 25,122 - -
EUR 30,262 30,286 31,421
JPY 167.37 167.67 174.6
GBP 34,269 34,362 35,155
AUD 16,964 17,025 17,457
CAD 18,480 18,539 19,058
CHF 33,003 33,106 33,769
SGD 19,880 19,942 20,557
CNY - 3,665 3,761
HKD 3,341 3,351 3,432
KRW 16.73 17.45 18.73
THB 778.68 788.3 838.48
NZD 14,676 14,812 15,153
SEK - 2,757 2,836
DKK - 4,048 4,163
NOK - 2,590 2,664
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,977.62 - 6,702.27
TWD 766.33 - 921.6
SAR - 6,929.19 7,250.62
KWD - 83,894 88,679
Cập nhật: 14/11/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,145 26,148 26,378
EUR 30,049 30,170 31,304
GBP 33,993 34,130 35,098
HKD 3,320 3,333 3,441
CHF 32,615 32,746 33,661
JPY 166.32 166.99 174.05
AUD 16,867 16,935 17,473
SGD 19,893 19,973 20,515
THB 793 796 831
CAD 18,426 18,500 19,037
NZD 14,655 15,163
KRW 17.32 18.93
Cập nhật: 14/11/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26153 26153 26378
AUD 16874 16974 17900
CAD 18432 18532 19543
CHF 32815 32845 34432
CNY 0 3678.6 0
CZK 0 1186 0
DKK 0 4045 0
EUR 30204 30234 31956
GBP 34133 34183 35946
HKD 0 3390 0
JPY 167.03 167.53 178.04
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2592 0
NZD 0 14726 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2773 0
SGD 19879 20009 20737
THB 0 759.1 0
TWD 0 850 0
SJC 9999 15110000 15110000 15310000
SBJ 13000000 13000000 15310000
Cập nhật: 14/11/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,178 26,230 26,378
USD20 26,180 26,230 26,378
USD1 26,180 26,230 26,378
AUD 16,943 17,043 18,154
EUR 30,358 30,358 31,675
CAD 18,387 18,487 19,798
SGD 19,900 19,900 20,668
JPY 167.6 169.1 173.67
GBP 34,242 34,392 35,166
XAU 15,168,000 0 15,372,000
CNY 0 3,564 0
THB 0 795 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 14/11/2025 16:00