Tin tức kinh tế ngày 06/09: Phấn đấu kiểm soát dịch bệnh trong tháng 9

21:00 | 06/09/2021

321 lượt xem
|
(PetroTimes) - Phấn đấu kiểm soát dịch bệnh trong tháng 9 nhằm phục hồi nền kinh tế; Chuyển biến tích cực từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu; Hàng loạt chỉ số kinh tế vĩ mô rơi vào trạng thái âm trong tháng 8/2021; Xây dựng kiểm soát công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng; Chuyên gia hiến kế phục hồi kinh tế tại TP.HCM; Ngành phân bón đối mặt khó khăn... là những tin tức kinh tế đáng chú ý ngày 06/09

Phấn đấu kiểm soát dịch bệnh trong tháng 9 nhằm phục hồi nền kinh tế

Tại cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 diễn ra ngày 6/9, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá tình hình kinh tế-xã hội 8 tháng đã chịu tác động rất lớn bởi dịch bệnh diễn biến phức tạp, nhanh, khó dự đoán, gây bất ngờ cho các nước, trong đó có Việt Nam, đồng thời thấu hiểu những khó khăn và chia sẻ những mất mát của người dân do dịch bệnh, giãn cách xã hội.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại cuộc họp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc.
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại cuộc họp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc.

Phát biểu tại cuộc họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu quyết tâm phấn đấu kiểm soát dịch bệnh trong tháng 9. Trong lúc còn khan hiếm vacicne, chưa bao phủ được vaccine thì các biện pháp phòng ngừa vẫn là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định, trong đó có biện pháp giãn cách xã hội, phải tăng cường tuyên truyền, vận động, kêu gọi để nhân dân chia sẻ, thông cảm, hưởng ứng, tích cực tham gia. Phấn đấu đạt mức cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch năm 2021, trước mắt chúng cần ưu tiên cao nhất cho việc sớm kiểm soát dịch bệnh, đồng thời từng bước khôi phục hoạt động sản xuất, kinh doanh ở những nơi bảo đảm an toàn dịch bệnh.

Chuyển biến tích cực từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu

Sau một năm thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Châu Âu (EVFTA), thương mại song phương đã tăng 18,4%.Số liệu được công bố tại hội thảo trực tuyến: “Hành trình một năm EVFTA – Khởi đầu thuận lợi và những bước tiếp theo” mới đây cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 2021, thương mại song phương giữa Việt Nam và châu Âu (EU) đạt 27,67 tỷ USD, tăng 18,4% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, xuất khẩu từ Việt Nam sang EU đạt 19,67 tỷ USD tăng trên 18% và nhập khẩu từ EU vào Việt Nam đạt 8 tỷ USD, tăng trên 19%.

Hàng loạt chỉ số kinh tế vĩ mô rơi vào trạng thái âm trong tháng 8/2021

Trong 8 tháng, chỉ có 81.600 doanh nghiệp được đăng ký thành lập mới trong khi số doanh nghiệp “đứt gãy”, rời bỏ thị trường lên tới 85.500 doanh nghiệp. Trong số các doanh nghiệp rời khỏi thị trường, có tới 43.200 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn vì không thể chống đỡ được với Covid-19.

Nếu nhìn vào loạt chỉ số vĩ mô đảo chiều trong tháng 8/2021, bức tranh doanh nghiệp thậm chí còn tồi tệ hơn. Đó là chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) giảm 4,2% so với tháng trước và giảm 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, riêng ngành chế biến - chế tạo, vốn là động lực tăng trưởng cho khu vực này, giảm tới 9,2% trong tháng này. Tính chung 8 tháng năm 2021, IIP tăng 5,6% so với 8 tháng năm 2020. Mặc dù con số này cao hơn tốc độ tăng 2,2% của cùng kỳ năm 2020, nhưng thấp hơn nhiều so với mức tăng 9,5% của cùng kỳ năm 2019.

Xây dựng kiểm soát công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 100/NQ-CP ngày 6/9 thông qua đề nghị xây dựng Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng.

Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tiếp thu đầy đủ ý kiến của các thành viên Chính phủ trong quá xây dựng Nghị định, bảo đảm theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và các văn bản pháp luật có liên quan, trình Chính phủ trong quý IV năm nay. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan, tổ chức có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị quyết này.

Chuyên gia hiến kế phục hồi kinh tế tại TP.HCM

Theo nhóm nghiên cứu từ Đại học Kinh tế - Luật, cần tăng tỷ lệ điều tiết ngân sách cho TPHCM từ 18% lên 23% từ năm 2022, đồng thời nâng trần nợ công cho thành phố để có nguồn lực đầu tư sau đại dịch.

Trong bản khuyến nghị chính sách "Kiến tạo động lực phục hồi kinh tế TPHCM" vừa được Đại học Kinh tế - Luật (Đại học Quốc gia TPHCM) công bố, nhóm nghiên cứu cho rằng tốc độ hồi phục kinh tế của TPHCM sau đại dịch sẽ phụ thuộc lớn vào tốc độ, quy mô của động lực hỗ trợ từ Chính phủ. Nhóm nghiên cứu khẳng định sự hỗ trợ nguồn lực từ ngân sách Trung ương đóng vai trò then chốt, bao gồm cả các hỗ trợ tức thời trong ngắn hạn, mang tính cấu trúc khi kết thúc giãn cách và tiếp tục kéo dài trong trung hạn.

Ngoài ra, nhóm đề xuất Quốc hội, Chính phủ áp dụng cơ chế đặc thù để kiến tạo động lực cho TPHCM nhằm giúp quá trình hồi phục kinh tế của thành phố diễn ra nhanh nhất có thể, bổ sung nguồn từ Ngân sách Trung ương hỗ trợ TPHCM chi cho gói hỗ trợ an sinh xã hội, phát hành trái phiếu Chính phủ trong điều kiện lãi suất đang ở mức thấp...

Ngành phân bón đối mặt khó khăn

Trên thế giới, vào cuối tháng 8, giá FOB ure hạt trong, giao ngay tại các khu vực chính như Biển Đen, Trung Quốc khoảng 400-406 USD/tấn, tức đã giảm gần 30 USD/tấn so với mức giá vào cuối tháng 7. Giá DAP tại phần lớn khu vực đã chững lại không tăng hoặc giảm nhẹ, hiện tại giá CFR tại Ấn Độ vào khoảng 650USD/tấn. Riêng kali, giá tăng tại Đông Nam Á và ổn định tại Hoa Kỳ do nguồn cung MOP vẫn hạn chế. Cũng trong tháng 8, lượng giao dịch phân bón giảm, có mặt hàng như ure lượng giao dịch giảm hơn 20% so với tháng 7. Do ảnh hưởng từ các xu hướng khác nhau của phân đơn và nguyên liệu, thị trường phân hỗn hợp NPK cũng trong trạng thái khá trầm lắng, thận trọng.

Tại Việt Nam, ngành phân bón đang bước vào giai đoạn đối mặt với khó khăn kép, từ đà giảm theo xu thế chung của thị trường thế giới và chịu tác động trực tiếp, nhiều mặt của đợt dịch bùng phát nghiêm trọng từ tháng 5 đến nay. Với đặc thù ngành hàng vật tư nông nghiệp, sản lượng lớn, sử dụng nguồn nhân lực lớn, từ cung ứng nguyên liệu đầu vào đến tiêu thụ sản phẩm đầu ra đều có tính liên kết chuỗi cao nên ảnh hưởng của dịch bệnh đã và đang gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp SXKD phân bón theo tác động dây chuyền

Giá dầu hôm nay 6/9 giảm khi đón nhận nhiều thông tin tiêu cực

Tính đến đầu giờ sáng nay (theo giờ Việt Nam), giá dầu thô Mỹ WTI giao dịch ở ngưỡng 68,97 USD/thùng - giảm 0,46%, trong khi giá dầu Brent dừng lại ở mức 72,24 USD/thùng - giảm 0,51%.

Nhà phân tích Carsten Fritsch của Commerzbank cho biết quá trình chế biến dầu thô có thể sẽ mất nhiều thời gian hơn so với sản lượng dầu thô, điều này cho thấy dự trữ dầu thô sẽ tăng trong những tuần tới.Trong khi đó, OPEC và các nước đồng minh (OPEC+) đã nhất trí tăng sản lượng thêm 400.000 thùng/ngày mỗi tháng cho đến cuối tháng 12/2021. Số liệu riêng của OPEC cho thấy thị trường sẽ đối mặt với sự thiếu hụt nguồn cung cho đến cuối năm 2021, nhưng sau đó sẽ rơi vào dư thừa trong năm 2022.

Ưu tiên phát triển công nghiệp năng lượng

Bộ Công Thương vừa ban hành khung Chương trình phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao với mục tiêu là đến năm 2030, triển khai thành công ít nhất 30 dự án công nghệ cao ứng dụng trong công nghiệp, có tính lan tỏa về mặt khoa học - công nghệ và kinh tế - xã hội.

Trước đó, ngày 27/01/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030. Chương trình gồm 3 chương trình thành phần gồm: Chương trình nghiên cứu, ứng dụng, phát triển công nghệ cao, phát triển sản phẩm và dịch vụ công nghệ cao (Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì); Chương trình phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao (Bộ Công Thương chủ trì) và Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì).

M.C

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 145,500 ▲700K 148,500 ▲700K
Hà Nội - PNJ 145,500 ▲700K 148,500 ▲700K
Đà Nẵng - PNJ 145,500 ▲700K 148,500 ▲700K
Miền Tây - PNJ 145,500 ▲700K 148,500 ▲700K
Tây Nguyên - PNJ 145,500 ▲700K 148,500 ▲700K
Đông Nam Bộ - PNJ 145,500 ▲700K 148,500 ▲700K
Cập nhật: 16/10/2025 10:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,660 ▲120K 14,860 ▲70K
Trang sức 99.9 14,650 ▲120K 14,850 ▲70K
NL 99.99 14,660 ▲120K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,660 ▲120K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,660 ▲60K 14,860 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,660 ▲60K 14,860 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,660 ▲60K 14,860 ▲60K
Miếng SJC Thái Bình 14,660 ▲60K 14,860 ▲60K
Miếng SJC Nghệ An 14,660 ▲60K 14,860 ▲60K
Miếng SJC Hà Nội 14,660 ▲60K 14,860 ▲60K
Cập nhật: 16/10/2025 10:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,466 ▲1320K 1,486 ▲1338K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,466 ▲1320K 14,862 ▲60K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,466 ▲1320K 14,863 ▲60K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,454 ▲12K 1,476 ▲12K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,454 ▲12K 1,477 ▲12K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,431 ▲12K 1,461 ▲12K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 140,153 ▲1188K 144,653 ▲1188K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 102,236 ▲900K 109,736 ▲900K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 92,008 ▲816K 99,508 ▲816K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 8,178 ▼72870K 8,928 ▼79620K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 77,835 ▲700K 85,335 ▲700K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 5,358 ▼47721K 6,108 ▼54471K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,466 ▲1320K 1,486 ▲1338K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,466 ▲1320K 1,486 ▲1338K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,466 ▲1320K 1,486 ▲1338K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,466 ▲1320K 1,486 ▲1338K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,466 ▲1320K 1,486 ▲1338K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,466 ▲1320K 1,486 ▲1338K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,466 ▲1320K 1,486 ▲1338K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,466 ▲1320K 1,486 ▲1338K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,466 ▲1320K 1,486 ▲1338K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,466 ▲1320K 1,486 ▲1338K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,466 ▲1320K 1,486 ▲1338K
Cập nhật: 16/10/2025 10:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16581 16850 17427
CAD 18241 18517 19132
CHF 32507 32891 33536
CNY 0 3470 3830
EUR 30096 30369 31395
GBP 34573 34965 35899
HKD 0 3258 3460
JPY 167 172 178
KRW 0 17 19
NZD 0 14830 15419
SGD 19821 20103 20617
THB 727 790 843
USD (1,2) 26073 0 0
USD (5,10,20) 26114 0 0
USD (50,100) 26142 26192 26364
Cập nhật: 16/10/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,157 26,157 26,364
USD(1-2-5) 25,111 - -
USD(10-20) 25,111 - -
EUR 30,340 30,364 31,501
JPY 171.84 172.15 179.28
GBP 34,995 35,090 35,898
AUD 16,865 16,926 17,360
CAD 18,482 18,541 19,059
CHF 32,873 32,975 33,649
SGD 19,994 20,056 20,671
CNY - 3,653 3,748
HKD 3,338 3,348 3,429
KRW 17.2 17.94 19.35
THB 776.44 786.03 835.97
NZD 14,856 14,994 15,343
SEK - 2,744 2,822
DKK - 4,058 4,173
NOK - 2,575 2,649
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,843.69 - 6,552.79
TWD 780.13 - 938.83
SAR - 6,925.55 7,246.01
KWD - 84,024 88,864
Cập nhật: 16/10/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,182 26,184 26,364
EUR 30,135 30,256 31,339
GBP 34,745 34,885 35,822
HKD 3,324 3,337 3,439
CHF 32,540 32,671 33,556
JPY 171.07 171.76 178.66
AUD 16,751 16,818 17,334
SGD 20,010 20,090 20,601
THB 789 792 827
CAD 18,444 18,518 18,999
NZD 14,846 15,324
KRW 17.81 19.47
Cập nhật: 16/10/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26150 26150 26364
AUD 16726 16826 17434
CAD 18408 18508 19113
CHF 32707 32737 33624
CNY 0 3660.8 0
CZK 0 1220 0
DKK 0 4130 0
EUR 30268 30298 31320
GBP 34846 34896 36009
HKD 0 3390 0
JPY 171.26 171.76 178.81
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.148 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2645 0
NZD 0 14882 0
PHP 0 425 0
SEK 0 2805 0
SGD 19961 20091 20822
THB 0 755 0
TWD 0 860 0
SJC 9999 14600000 14600000 14800000
SBJ 14000000 14000000 14800000
Cập nhật: 16/10/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,176 26,226 26,369
USD20 26,176 26,226 26,369
USD1 26,176 26,226 26,369
AUD 16,870 16,970 18,078
EUR 30,359 30,359 31,671
CAD 18,360 18,460 19,772
SGD 20,033 20,183 21,190
JPY 171.13 172.63 177.23
GBP 34,780 34,930 35,701
XAU 14,598,000 0 14,802,000
CNY 0 3,458 0
THB 0 792 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 16/10/2025 10:00