Tín dụng tăng - vẫn chưa hết lo

07:00 | 12/10/2013

835 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Sau một thời gian trì trệ, tín dụng ngân hàng đã tăng tốc trở lại, cho thấy những tín hiệu tích cực của tình hình kinh tế đang khởi sắc. Tuy nhiên, những nghi ngại về định hướng nguồn tín dụng đã thực sự nhằm vào thị trường hay chưa thì vẫn là vấn đề khiến nhiều người quan tâm.

Tín hiệu vui

Lâu nay, sự thay đổi chỉ số tín dụng thể hiện rõ tình trạng sức khỏe của nền kinh tế. Theo đó, tín dụng yếu chứng tỏ kinh tế lâm vào khó khăn, dòng tiền không quay vòng phục vụ cho sản xuất, kinh doanh và ngược lại.

Năm 2013 đánh dấu những khó khăn của nền kinh tế khi phải đến quý II những dấu hiệu về sự phục hồi tín dụng mới bắt đầu xuất hiện. Tính đến cuối tháng 8, tăng trưởng tín dụng trong toàn hệ thống đã đạt 6,45%. Trong đó, tín dụng bằng VNĐ tăng 10,4%; tín dụng ngoại tệ giảm 11,55%. Đây thực sự là kết quả đáng mừng bởi mục tiêu tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng Nhà nước đặt ra cho năm 2013 là phải đạt 12%.

Sự tăng trưởng trở lại của tín dụng được cho là nhờ việc các ngân hàng đã kịp thời điều chỉnh lãi suất cho vay. Chỉ trong vòng một năm, lãi suất cho vay liên tiếp phá mốc và thay đổi đến 5 lần. Theo đó, lãi suất cho vay của các ngân hàng trong quý II đã bắt đầu điểu chỉnh giảm, tạo ra tính cạnh tranh cho thị trường vốn vay. Theo các chuyên gia, với lãi suất cho vay hiện nay mặt bằng lãi suất đã đưa về với thời điểm của năm 2005. Đây là mức lãi suất được đánh giá vô cùng thuận lợi để doanh nghiệp vay nhằm tái thiết hoạt động kinh doanh.

Tín dụng đã tăng nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết

Các ngân hàng liên tục đưa ra các chương trình tín dụng với mức lãi suất ưu đãi, tích cực giảm lãi suất của các khoản vay cũ, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vốn vay... khiến nhu cầu vốn vay được đẩy mạnh. Điển hình như Ngân hàng Vietcombank, nếu như trong quý I, tín dụng của ngân hàng này âm 1,47% thì hết quý II, tín dụng đã tăng trở lại đạt dương 2,8% so với thời điểm năm 2012.

Ông Nghiêm Xuân Thành, Tổng giám đốc Vietcombank cho biết: Với sức tăng trưởng tín dụng như hiện nay, Vietcombank tin tưởng sẽ đạt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng mà Ngân hàng Nhà nước đề ra. Cầu tăng của tín dụng là lý do khiến nhiều ngân hàng đã bắt đầu có động thái xin được nới room tín dụng nhằm tăng lợi nhuận. Tiêu biểu là BIDV với đề xuất nới room lên 17%. Nhiều ngân hàng cổ phần cũng có chung đề xuất này như: VIB, Sacombank, HDBank, Nam A Bank… Đại diện ngân hàng VIB cho hay: Vốn vay đã tăng mạnh trong quý II khiến đầu ra của tín dụng không sợ bị tắc như đầu năm. Vì vậy xem xét tình hình hoạt động hiện tại chúng tôi đề xuất được nới room tín dụng lên 20%.

Bên cạnh việc giảm lãi suất của các ngân hàng thì cũng cần phải đề cập đến các chính sách của Chính phủ trong thời gian qua. Trong đó đặc biệt ưu tiên cho những lĩnh vực gặp khó khăn, như việc triển khai các chương trình hỗ trợ bất động sản, giảm và giãn thuế cho doanh nghiệp gặp khó khăn… Điển hình nhất là phải nói đến chương trình “Kết nối ngân hàng và doanh nghiệp” đang giúp hàng trăm doanh nghiệp đón nhận những dòng vốn ưu đãi phục vụ cho sản xuất, kinh doanh.

Chỉ tính riêng tại địa bàn TP HCM chương trình này đã và đang hỗ trợ cho hàng trăm doanh nghiệp với tổng hạn mức giải ngân là 8.781 tỉ đồng. Ông Nguyễn Hoàng Minh, Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Chi nhánh TP HCM cho biết: Các chương trình, chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp trong việc vay vốn đang đã thực sự có chuyển biến tích cực. Doanh nghiệp không còn lo ngại về vấn đề lãi suất cao như thời gian trước và họ cũng mạnh dạn hơn trong việc đăng ký vay vốn để tái thiết hoạt động kinh doanh. Song song với việc hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó, thì thành công của chủ trương chống đôla hóa của Ngân hàng Nhà nước cũng góp phần đẩy nguồn tăng trưởng tín dụng lên cao. Bằng chứng là nguồn tín dụng bằng ngoại tệ  trong 8 tháng đầu năm đã giảm 11,55% trong khi tín dụng bằng đồng nội tệ đã tăng 10,4%.

Cần thời gian

Mặc dù tín dụng tăng trưởng tốt bước đầu phản ánh tình hình kinh tế đang có những tín hiệu chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn đó những vấn đề chưa thể giải tỏa khiến thị trường không khỏi lo lắng. Đặc biệt là sự tăng tốc này trở lại khi nền kinh tế vẫn được đánh giá chưa thoát khỏi khó khăn trong thời gian tới. Nhiều ý kiến cho rằng, chưa thể an tâm khi đầu ra của tín dụng chưa được xác minh rõ. Liệu nguồn tín dụng này có thực sự đi vào thị trường để tái thiết hoạt động sản xuất hay không thì vẫn cần phải đợi thời gian.

Trên thực tế, lo ngại này là không phải thiếu thực tế, bởi theo báo cáo mới đây của Tổng cục Thống kê, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 8 chỉ tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng 7% của tháng 7. Đáng lưu ý là sản xuất và phân phối điện cũng chỉ tăng 8,4% trong khi tháng 7 tăng tới 9,2%. Những con số này cho thấy hoạt động sản xuất, kinh doanh vẫn gặp nhiều khó khăn nên nhu cầu sử dụng điện thấp.

Bên cạnh đó, chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến trong tháng 8 cũng tăng trở lại sau khi giảm liên tiếp trong những tháng đầu năm. Nếu như đầu tháng 7, chỉ số tồn kho của ngành này tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước, thì đến ngày đầu tháng 8 con số này đã tăng lên 9%. Như vậy có thể thấy sự lo ngại về việc dòng tín dụng chưa thực sự đi vào sản xuất không phải là thừa.

Bên cạnh đó, mặc dù hiện nay các ngân hàng ra sức cho vay sản xuất kinh doanh và vay tiêu dùng, tuy nhiên, tình trạng hàng tồn kho của doanh nghiệp vẫn kéo dài khiến nhiều chuyên gia lo ngại không ngoại trừ việc vay vốn ưu đãi là nhằm mục đích trả tín dụng đen. Điều mà các doanh nghiệp đã thực hiện trong thời gian trước đây để duy trì hoạt động sản xuất.

Theo Tiến sĩ Đinh Thế Hiển, vẫn còn quá sớm để vui mừng trước sự tăng trở lại của tín dụng, bởi không ngoại trừ việc các ngân hàng cơ cấu lại nợ. Mặt khác hiện tại vẫn còn không ít doanh nghiệp do tồn kho và nợ vay chưa giải quyết được nên không dám vay tiếp. Ngược lại, các ngân hàng vẫn khá thận trọng với việc cho doanh nghiệp vay mà chuyển hướng sang khách hàng cá nhân. Vì vậy, khó mà khẳng định được rằng tín dụng đã đi đúng hướng. Cũng theo ông Hiển, để tín dụng thực sự tăng trưởng ổn định và đi đúng hướng thì cần phải có thêm thời gian để kiểm chứng. Điều quan trọng hiện nay là ngân hàng cần tăng cường hơn nữa hoạt động cho vay nhằm tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế.

Theo đó, ngân hàng cần tiếp tục có các chính sách ưu tiên cho đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi. “Về phía các doanh nghiệp cũng cần phải tập trung vào việc tìm giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho chính mình. Tranh thủ các chính sách ưu đãi của nhà nước để vay vốn, giải quyết tốt vấn đề hàng tồn kho nhằm mở rộng thị trường, tái thiết hoạt động sản xuất, tăng đầu tư chi phí rẻ. Doanh nghiệp phải có chiến lược cụ thể, làm sao sử dụng nguồn vốn vay đúng mục đích và đạt được hiệu quả cao nhất” - ông Hiển nhận định.

Thùy Trang

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 119,300 ▲600K 121,300 ▲600K
AVPL/SJC HCM 119,300 ▲600K 121,300 ▲600K
AVPL/SJC ĐN 119,300 ▲600K 121,300 ▲600K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,880 ▲60K 11,300 ▲60K
Nguyên liệu 999 - HN 10,870 ▲60K 11,290 ▲60K
Cập nhật: 03/07/2025 17:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.800 ▲300K 117.400 ▲400K
TPHCM - SJC 119.300 ▲600K 121.300 ▲600K
Hà Nội - PNJ 114.800 ▲300K 117.400 ▲400K
Hà Nội - SJC 119.300 ▲600K 121.300 ▲600K
Đà Nẵng - PNJ 114.800 ▲300K 117.400 ▲400K
Đà Nẵng - SJC 119.300 ▲600K 121.300 ▲600K
Miền Tây - PNJ 114.800 ▲300K 117.400 ▲400K
Miền Tây - SJC 119.300 ▲600K 121.300 ▲600K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.800 ▲300K 117.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - SJC 119.300 ▲600K 121.300 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 119.300 ▲600K 121.300 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.800 ▲300K 117.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.800 ▲300K 117.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.100 ▲200K 116.600 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.980 ▲200K 116.480 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.270 ▲200K 115.770 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.030 ▲190K 115.530 ▲190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.100 ▲150K 87.600 ▲150K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.860 ▲120K 68.360 ▲120K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.160 ▲90K 48.660 ▲90K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.410 ▲190K 106.910 ▲190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.780 ▲130K 71.280 ▲130K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.440 ▲130K 75.940 ▲130K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.940 ▲140K 79.440 ▲140K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.380 ▲80K 43.880 ▲80K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.130 ▲70K 38.630 ▲70K
Cập nhật: 03/07/2025 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,270 ▲40K 11,720 ▲40K
Trang sức 99.9 11,260 ▲40K 11,710 ▲40K
NL 99.99 10,865 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,865 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,480 ▲40K 11,780 ▲40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,480 ▲40K 11,780 ▲40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,480 ▲40K 11,780 ▲40K
Miếng SJC Thái Bình 11,930 ▲60K 12,130 ▲60K
Miếng SJC Nghệ An 11,930 ▲60K 12,130 ▲60K
Miếng SJC Hà Nội 11,930 ▲60K 12,130 ▲60K
Cập nhật: 03/07/2025 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16688 16958 17540
CAD 18737 19015 19635
CHF 32406 32789 33445
CNY 0 3570 3690
EUR 30257 30531 31563
GBP 34982 35376 36306
HKD 0 3207 3409
JPY 175 179 185
KRW 0 18 20
NZD 0 15592 16182
SGD 20035 20318 20843
THB 724 787 840
USD (1,2) 25937 0 0
USD (5,10,20) 25977 0 0
USD (50,100) 26006 26040 26345
Cập nhật: 03/07/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,006 26,006 26,345
USD(1-2-5) 24,966 - -
USD(10-20) 24,966 - -
GBP 35,294 35,390 36,250
HKD 3,277 3,287 3,383
CHF 32,707 32,808 33,606
JPY 178.72 179.04 186.43
THB 772.07 781.61 836.03
AUD 16,946 17,007 17,467
CAD 18,944 19,005 19,549
SGD 20,186 20,249 20,913
SEK - 2,702 2,795
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,070 4,207
NOK - 2,555 2,642
CNY - 3,607 3,702
RUB - - -
NZD 15,554 15,699 16,143
KRW 17.78 18.54 20.01
EUR 30,459 30,483 31,695
TWD 819.62 - 991.44
MYR 5,798.38 - 6,536.74
SAR - 6,865.54 7,219.9
KWD - 83,536 88,742
XAU - - -
Cập nhật: 03/07/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,990 26,000 26,340
EUR 30,297 30,419 31,549
GBP 35,093 35,234 36,229
HKD 3,269 3,282 3,387
CHF 32,480 32,610 33,546
JPY 178.05 178.77 186.23
AUD 16,876 16,944 17,487
SGD 20,207 20,288 20,843
THB 787 790 826
CAD 18,926 19,002 19,536
NZD 15,673 16,183
KRW 18.49 20.32
Cập nhật: 03/07/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26020 26020 26345
AUD 16876 16976 17549
CAD 18925 19025 19579
CHF 32674 32704 33579
CNY 0 3623 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30550 30650 31425
GBP 35290 35340 36453
HKD 0 3330 0
JPY 178.56 179.56 186.07
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15713 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20201 20331 21052
THB 0 754.5 0
TWD 0 900 0
XAU 11600000 11600000 12100000
XBJ 10800000 10800000 12100000
Cập nhật: 03/07/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,025 26,075 26,320
USD20 26,025 26,075 26,320
USD1 26,025 26,075 26,320
AUD 16,918 17,068 18,137
EUR 30,597 30,747 31,965
CAD 18,865 18,965 20,282
SGD 20,290 20,440 20,909
JPY 179.19 180.69 185.3
GBP 35,359 35,509 36,290
XAU 11,928,000 0 12,132,000
CNY 0 3,507 0
THB 0 790 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 03/07/2025 17:00