Tái cấu trúc đô thị theo hướng đa cực, đa trung tâm

07:07 | 17/09/2023

245 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Hà Nội cần tái cấu trúc đô thị theo hướng đa cực, đa trung tâm để phân giải áp lực giao thông đồng đều hơn, đồng thời phát triển toàn diện kinh tế - xã hội.

Nói cách khác là cần hình thành nhiều trung tâm phát triển, thu hút dân cư hơn nữa ở khu vực ngoài nội đô để kéo giãn áp lực giao thông.

Thạc sĩ quản lý đô thị Phan Trường Thành nhận định, hiện hầu hết bệnh viện, trường học lớn, và không ít cơ quan công sở đang nằm sâu trong nội đô. Theo đó, cơ hội về việc làm, nhu cầu sinh sống, đi lại cũng tập trung dồn vào lõi đô thị trong khi khu vực ngoại thành còn nhiều tiềm năng nhưng chậm phát triển.

“Với nhu cầu đi lại hướng tâm lớn như hiện nay, hạ tầng rất khó để đáp ứng được hết, kể cả khi hình thành đầy đủ các tuyến ĐSĐT, phát triển VTHKCC đến trình độ cao. Muốn giảm tải cho giao thông phải giãn dân ra khỏi nội đô, đó là điều kiện tất yếu” - ông Phan Trường Thành nói.

Tái cấu trúc đô thị theo hướng đa cực, đa trung tâm
Một góc Hà Nội nhìn từ hướng Tây. Ảnh: Công Hùng

Điều này cũng được đại diện Viện Quy hoạch xây dựng Hà Nội lý giải, mối quan hệ giữa chất tải thêm hạ tầng (nhà ở, công sở, trung tâm thương mại dịch vụ) và khả năng đáp ứng của hệ thống giao thông chưa được lượng hóa trên phạm vi nội thành và từng khu vực. “Do đó việc kiểm soát phát triển rất khó thực hiện theo hướng đồng bộ với quy mô hạ tầng giao thông đô thị theo từng thời kỳ phát triển” - vị này cho biết.

Các chuyên gia cho rằng, khu vực nội đô Hà Nội thường xuyên UTGT chủ yếu do thu hút quá lớn nhu cầu đi và đến. Người dân muốn đi học, chữa bệnh, mua sắm, làm việc… đều hướng vào tâm TP, nơi có bệnh viện, trường học, công sở, hệ thống dịch vụ thương mại chất lượng, sầm uất hơn hẳn ngoại thành.

Thạc sĩ Phan Trường Thành chia sẻ: “Nhìn vào thực tế, các tháng Hè, do học sinh, sinh viên nghỉ học, giao thông “dễ thở” hơn hẳn. Từ cuối tháng 8, đầu tháng 9 vừa qua, khi các trường hoạt động trở lại, UTGT diễn biến khó lường hơn, ngày nào cũng xảy ra ùn tắc. Nếu các trường đại học di chuyển khỏi nội đô, chắc chắn sẽ hạn chế được UTGT”.

Lãnh đạo Sở GTVT Hà Nội cho biết, từ đầu năm 2022 đến nay, nhiều nội dung liên quan đến phát triển Thủ đô Hà Nội đã được đặt ra với định hướng mới. Bộ Chính trị, T.Ư đã ban hành nhiều nghị quyết liên quan trực tiếp, gián tiếp đến định hướng, không gian phát triển đô thị của Thủ đô.

Ví dụ như Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị đã đặt ra yêu cầu điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, với sông Hồng là trục xanh, cảnh quan trung tâm, phát triển đô thị hài hòa hai bên sông của Hà Nội.

Theo đó, Hà Nội cần xây dựng mô hình TP trực thuộc Thủ đô tại khu vực phía Bắc và Tây Hà Nội; xây dựng đô thị thông minh trên cơ sở phát triển khu vực hai bên trục Nhật Tân - Nội Bài; nghiên cứu, xây dựng thêm một sân bay quốc tế đáp ứng yêu cầu phát triển Vùng Thủ đô và khu vực phía Bắc; tập trung hình thành một số cực tăng trưởng mới; từng bước tạo ra chùm đô thị, các đô thị vệ tinh, mô hình phát triển đô thị theo định hướng giao thông (TOD)…

Đây là định hướng vô cùng quan trọng, cơ sở để tái cấu trúc đô thị Hà Nội theo hướng đa cực, đa trung tâm.

Càng hình thành nhiều trung tâm phát triển, tạo ra việc làm, đáp ứng nhu cầu sinh sống, học tập, khám chữa bệnh, mua sắm… dân cư sẽ được kéo giãn ra khỏi nội đô, áp lực giao thông hướng tâm sẽ được giải toả và phân bổ đồng đều hơn trên phạm vi toàn TP.

Đối với giai đoạn trước mắt, đại diện Viện Quy hoạch xây dựng Hà Nội kiến nghị: “Chính phủ và các bộ, ngành T.Ư cần sớm có cơ chế, chính sách và kế hoạch khả thi di dời những trụ sở cơ quan, trường học, bệnh viện lớn, cơ sở công nghiệp ra khỏi nội đô theo đúng quy hoạch được duyệt để góp phần giảm áp lực lên hệ thống giao thông đô thị”.

Theo Đặng Sơn - Phạm Công/ Kinh tế & Đô thị

Sẽ sáp nhập TP Ninh Bình với Hoa Lư thành đô thị cố đô - di sảnSẽ sáp nhập TP Ninh Bình với Hoa Lư thành đô thị cố đô - di sản
UNESCO lên tiếng việc Thái Bình UNESCO lên tiếng việc Thái Bình "xén" 11.000ha khu bảo tồn làm đô thị

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,450 75,450
Nguyên liệu 999 - HN 74,350 75,350
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 01/05/2024 17:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 75.600
TPHCM - SJC 83.000 85.200
Hà Nội - PNJ 73.800 75.600
Hà Nội - SJC 83.000 85.200
Đà Nẵng - PNJ 73.800 75.600
Đà Nẵng - SJC 83.000 85.200
Miền Tây - PNJ 73.800 75.600
Miền Tây - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 74.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 56.030
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 43.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 31.140
Cập nhật: 01/05/2024 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 7,590
Trang sức 99.9 7,375 7,580
NL 99.99 7,380
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 7,620
Miếng SJC Thái Bình 8,320 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,320 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,320 8,520
Cập nhật: 01/05/2024 17:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 85,200
SJC 5c 83,000 85,220
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 85,230
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 75,500
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 75,600
Nữ Trang 99.99% 73,700 74,700
Nữ Trang 99% 71,960 73,960
Nữ Trang 68% 48,451 50,951
Nữ Trang 41.7% 28,803 31,303
Cập nhật: 01/05/2024 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 01/05/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,103 16,123 16,723
CAD 18,088 18,098 18,798
CHF 26,992 27,012 27,962
CNY - 3,429 3,569
DKK - 3,535 3,705
EUR #26,178 26,388 27,678
GBP 31,088 31,098 32,268
HKD 3,109 3,119 3,314
JPY 156.24 156.39 165.94
KRW 16.08 16.28 20.08
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,200 2,320
NZD 14,668 14,678 15,258
SEK - 2,227 2,362
SGD 18,009 18,019 18,819
THB 628.46 668.46 696.46
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 01/05/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 01/05/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 01/05/2024 17:00