Rủi ro sau lệnh thiết quân luật ngắn ngủi, nền kinh tế Hàn Quốc thêm bế tắc trước "cơn gió mạnh" từ Mỹ và Trung Quốc

08:52 | 04/12/2024

144 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk Yeol tối 3/12 bất ngờ ban bố thiết quân luật, áp đặt các biện pháp như cấm Quốc hội hoạt động và kiểm soát báo chí nước này. Lý do ông đưa ra là để đối phó với thế lực "chống phá, thân Triều Tiên".
Rủi ro sau lệnh thiết quân luật ngắn ngủi, nền kinh tế Hàn Quốc thêm bế tắc trước
Lệnh thiết quân luật của Hàn Quốc dù tồn tại ngắn ngủi nhưng đã góp phần gây thêm sức ép đối với nền kinh tế vốn đang bế tắc trước ’cơn gió mạnh' từ Trung Quốc. (Nguồn: globelynews)

Những người làm việc trong lĩnh vực truyền thông và chính trị Hàn Quốc đã vô cùng bối rối sau khi Tổng thống Yoon Suk Yeol bất ngờ ban bố thiết quân luật. Dù lệnh chỉ tồn tại ít giờ nhưng "mọi người đều sửng sốt, họ không biết chuyện gì đang xảy ra", tờ Chosun Ilbo, cho biết.

Vài giờ sau khi lệnh được phát đi từ Văn phòng Tổng thống, toàn bộ 190 nghị sĩ có mặt tại phiên họp Quốc hội đều bỏ phiếu thông qua nghị quyết yêu cầu dỡ bỏ ngay lệnh thiết quân luật. Văn phòng Chủ tịch Quốc hội sau đó thông báo "tuyên bố thiết quân luật bị vô hiệu hóa sau khi nghị quyết được thông qua".

Bất ổn tiếp tục chi phối thị trường

Sau thông tin trên, giá đồng nội tệ của Hàn Quốc - Won tiếp tục lao dốc so với đồng USD. Hiện tại, giá Won giảm 2,5% về 1.442 KRW 1 USD. Đây là mức thấp nhất 8 năm qua. Như nhận định của giới phân tích, "sự bất ổn đang chi phối thị trường và khi thông tin còn gây hoang mang, bất ổn có thể tiếp tục gây sức ép lên đồng Won".

Trong khi đó, từ đầu năm đến nay, Won đã mất giá hơn 9%. Đây là một trong những đồng tiền có diễn biến tệ nhất châu Á. Won cũng liên tục chịu sức ép khi Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc mạnh tay hạ lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế.

Nhiều nhà đầu tư đã rút khỏi thị trường quốc gia châu Á này, do nhận định kinh tế Hàn Quốc phụ thuộc lớn vào xuất khẩu và chắc chắn sẽ chịu tác động lớn từ thuế quan mà Tổng thống đắc cử Mỹ dọa áp lên hàng hóa Trung Quốc.

Thật khó để không thông cảm với Tổng thống Yoon Suk Yeol khi ông cố gắng gỡ rối những thay đổi có thể xảy ra trong chính sách kinh tế Mỹ dưới thời chính quyền nhiệm kỳ hai của Tổng thống Donald Trump. Ông Yoon cũng như hàng chục người đồng cấp của mình, đang kêu gọi đến Washington càng sớm càng tốt với hy vọng tác động được đến các quyết định của Nhà Trắng trước khi chúng được ấn định.

Hiện tại, giá tiêu dùng của Hàn Quốc vẫn ổn định ở mức 1% trong tháng thứ ba liên tiếp vào tháng 11 nhờ giá dầu giảm. Nhưng các nhà kinh tế dự báo đồng Won trượt giá so với USD sẽ đẩy lạm phát của nước này lên gần 2% vào tháng 12.

Đồng Won Hàn Quốc yếu đi nhanh chóng sau chiến thắng của ông Donald Trump trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ - gây áp lực tăng giá trong nước trong bối cảnh khả năng bất ổn về chính sách thương mại gia tăng trong nhiệm kỳ thứ hai của ông.

Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc đã giảm đều đặn kể từ khi chính quyền cựu Tổng thống Kim Dae-jung nhậm chức vào năm 1998, với mỗi nhiệm kỳ tổng thống Hàn Quốc 5 năm liên tiếp đều giảm khoảng 1 điểm phần trăm.

Dưới thời chính quyền Tổng thống Yoon Suk Yeol hiện tại, nền kinh tế Hàn Quốc bị cảnh báo ​​sẽ bước vào kỷ nguyên "tăng trưởng thấp", với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm dự kiến ​​sẽ giảm xuống mức 1%.

Chưa tìm ra cách để thúc đẩy nền kinh tế

Nền kinh tế Hàn Quốc lâu nay vốn được thúc đẩy bởi một ngành công nghiệp mạnh mẽ, nhưng hiện đang phải đối mặt với những thách thức đáng kể. Sự cạnh tranh ngày càng tăng từ Trung Quốc - đôi khi được gọi là "hố đen" đối với ngành công nghiệp toàn cầu - đang gây áp lực giảm đối với triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế xứ sở kim chi.

Một nghiên cứu chung của The Chosun Daily và Liên đoàn công nghiệp Hàn Quốc về thị phần xuất khẩu toàn cầu trên 8 ngành công nghiệp chính trong thập niên qua đã tiết lộ mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Theo đó, dữ liệu cho thấy, Hàn Quốc đã bị Trung Quốc vượt qua tới 7/8 ngành công nghiệp, bao gồm chất bán dẫn, đóng tàu và thép, hoặc chứng kiến ​​khoảng cách trong một số ngành công nghiệp đã mở rộng đáng kể, đến mức gần như không thể bắt kịp.

Chỉ trong lĩnh vực hóa dầu, Hàn Quốc mới có thể duy trì được vị trí dẫn đầu mong manh, với lợi thế chỉ 1 điểm phần trăm.

Trong các ngành công nghiệp chiến lược như chất bán dẫn, màn hình và pin thứ cấp - được coi là xương sống của nền kinh tế công nghệ cao Hàn Quốc - Trung Quốc vẫn đạt được những bước tiến đáng kể.

Năm 2013, thị phần xuất khẩu của Trung Quốc trong các lĩnh vực này đã gần gấp đôi so với Hàn Quốc. Như vậy, trong thập niên qua, khoảng cách đã ngày càng mở rộng đáng kể, với thị phần của Trung Quốc hiện lớn hơn từ 3 đến 8 lần. Đáng tiếc, sự thay đổi này không chỉ phản ánh sự tăng trưởng nhanh chóng của Trung Quốc mà còn phản ánh sự suy giảm khả năng cạnh tranh của Hàn Quốc.

Các ngành công nghiệp khác vốn là nền tảng cho nền kinh tế Hàn Quốc trong lịch sử như - đóng tàu, thép, sản xuất ô tô và hóa dầu - cũng đang chịu áp lực mạnh.

Xuất khẩu tàu biển và ô tô, những lĩnh vực mà Hàn Quốc từng có lợi thế cạnh tranh, đã bị Trung Quốc vượt qua trong thập niên qua.

Ngành thép, phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các chiến lược định giá mạnh mẽ của Bắc Kinh, đã chứng kiến ​​khoảng cách thị phần của mình với Trung Quốc tăng hơn 10 điểm phần trăm, khiến ngành này gặp rủi ro lớn.

Một quan chức trong ngành cho biết: "Ngay cả khi phải đối mặt với các lệnh trừng phạt thương mại đáng kể từ cuộc xung đột kinh tế với Mỹ, Trung Quốc vẫn tiếp tục dẫn đầu, trong khi các ngành công nghiệp chính của Hàn Quốc đang tụt hậu lần lượt trước sự cạnh tranh lấn lướt của nền kinh tế số hai thế giới".

Ngân hàng Hàn Quốc gần đây đã dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức 1,9% cho năm 2025 và 1,8% cho năm 2026, phản ánh thêm những thách thức sắp tới đối với nền kinh tế xứ sở kim chi.

Nếu những dự đoán này đúng, tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm trong 5 năm của chính quyền Tổng thống Yoon sẽ giảm xuống còn 1,98%, đánh dấu lần đầu tiên một chính quyền Hàn Quốc ghi nhận tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm dưới 2%.

Các chuyên gia nhấn mạnh những thách thức về mặt cấu trúc, chẳng hạn như dân số già hóa và sự phụ thuộc lớn vào các tập đoàn xuất khẩu, là những lý do chính dẫn đến sự suy thoái.

Chuyên gia Lee Sang-ho tại Viện Nghiên cứu kinh tế Hàn Quốc cho biết: “Mô hình tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu của Hàn Quốc không còn mạnh như trước nữa và đất nước này vẫn chưa tìm ra cách mới để thúc đẩy nền kinh tế tiến lên”.

Singapore và Hàn Quốc hướng tới Chương trình mua chung khí đốtSingapore và Hàn Quốc hướng tới Chương trình mua chung khí đốt
Ông thầy dị và trẻ tự kỷ Ông thầy dị và trẻ tự kỷ "đặc biệt"
Vì sao Hàn Quốc ngần ngại nhập khẩu dầu của Mỹ?Vì sao Hàn Quốc ngần ngại nhập khẩu dầu của Mỹ?

Theo Minh Anh/ Báo Quốc tế

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • bao-hiem-pjico
  • agribank-vay-mua-nha
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 115,500 118,500
AVPL/SJC HCM 115,500 118,500
AVPL/SJC ĐN 115,500 118,500
Nguyên liệu 9999 - HN 10,820 11,150
Nguyên liệu 999 - HN 10,810 11,140
Cập nhật: 18/05/2025 10:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.000 114.000
TPHCM - SJC 115.500 118.500
Hà Nội - PNJ 111.000 114.000
Hà Nội - SJC 115.500 118.500
Đà Nẵng - PNJ 111.000 114.000
Đà Nẵng - SJC 115.500 118.500
Miền Tây - PNJ 111.000 114.000
Miền Tây - SJC 115.500 118.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.000 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 115.500 118.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.000
Giá vàng nữ trang - SJC 115.500 118.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.000 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.890 113.390
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.190 112.690
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.970 112.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.780 85.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.050 66.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.870 47.370
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.570 104.070
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.890 69.390
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.430 73.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.830 77.330
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.210 42.710
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.110 37.610
Cập nhật: 18/05/2025 10:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,960 11,410
Trang sức 99.9 10,950 11,400
NL 99.99 10,520
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,520
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,170 11,470
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,170 11,470
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,170 11,470
Miếng SJC Thái Bình 11,550 11,850
Miếng SJC Nghệ An 11,550 11,850
Miếng SJC Hà Nội 11,550 11,850
Cập nhật: 18/05/2025 10:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16064 16331 16925
CAD 18030 18305 18929
CHF 30295 30670 31327
CNY 0 3358 3600
EUR 28310 28576 29618
GBP 33605 33993 34949
HKD 0 3186 3390
JPY 171 175 181
KRW 0 17 19
NZD 0 14935 15529
SGD 19399 19679 20218
THB 690 753 812
USD (1,2) 25660 0 0
USD (5,10,20) 25698 0 0
USD (50,100) 25726 25760 26115
Cập nhật: 18/05/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,750 25,750 26,110
USD(1-2-5) 24,720 - -
USD(10-20) 24,720 - -
GBP 34,085 34,177 35,100
HKD 3,260 3,270 3,369
CHF 30,618 30,713 31,573
JPY 175.08 175.4 183.22
THB 745.58 754.78 807.58
AUD 16,419 16,478 16,929
CAD 18,336 18,395 18,897
SGD 19,673 19,734 20,360
SEK - 2,622 2,715
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,831 3,963
NOK - 2,450 2,539
CNY - 3,563 3,660
RUB - - -
NZD 14,983 15,122 15,564
KRW 17.32 18.06 19.4
EUR 28,618 28,641 29,861
TWD 778.43 - 942.46
MYR 5,675.47 - 6,404.03
SAR - 6,797.05 7,154.54
KWD - 82,154 87,358
XAU - - -
Cập nhật: 18/05/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,750 25,760 26,100
EUR 28,471 28,585 29,687
GBP 33,905 34,041 35,012
HKD 3,256 3,269 3,375
CHF 30,547 30,670 31,579
JPY 174.44 175.14 182.42
AUD 16,260 16,325 16,854
SGD 19,657 19,736 20,276
THB 762 765 799
CAD 18,256 18,329 18,839
NZD 14,961 15,467
KRW 17.73 19.55
Cập nhật: 18/05/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25740 25740 26100
AUD 16288 16388 16956
CAD 18213 18313 18867
CHF 30579 30609 31494
CNY 0 3561.9 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28660 28760 29532
GBP 33942 33992 35103
HKD 0 3270 0
JPY 174.6 175.6 182.14
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15101 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19585 19715 20445
THB 0 724.3 0
TWD 0 845 0
XAU 11630000 11630000 11870000
XBJ 10500000 10500000 11870000
Cập nhật: 18/05/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,730 25,780 26,130
USD20 25,730 25,780 26,130
USD1 25,730 25,780 26,130
AUD 16,338 16,488 17,563
EUR 28,711 28,861 30,047
CAD 18,158 18,258 19,581
SGD 19,660 19,810 20,292
JPY 175.2 176.7 181.46
GBP 34,052 34,202 35,002
XAU 11,568,000 0 11,872,000
CNY 0 3,445 0
THB 0 759 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 18/05/2025 10:00