Nỗ lực tăng sản lượng khai thác dầu khí

09:50 | 18/04/2022

6,411 lượt xem
|
Trước diễn biến phức tạp của tình hình dịch Covid-19 và cuộc xung đột tại Ukraine, giá dầu trên thế giới tăng cao, lên mức 100 USD/thùng, thậm chí có thời điểm vượt hơn 100 USD/thùng. Do đó, giá xăng dầu trong nước cũng tăng theo tạo áp lực lớn lên hoạt động sản xuất của doanh nghiệp và đời sống nhân dân. Vấn đề đặt ra, vì sao trong bối cảnh giá dầu tăng nhưng ngành dầu khí lại không thể gia tăng sản lượng khai thác, bù đắp nguồn thu cho ngân sách ?
Nỗ lực tăng sản lượng khai thác dầu khí
Khai thác dầu khí tại giàn Đại Hùng 02, một trong những giàn khoan lớn và hiện đại nhất hiện nay, hoàn toàn do các kỹ sư, công nhân Việt Nam chế tạo.

Giá dầu đang neo ở mức cao cho nên nhiều đơn vị trong ngành dầu khí sẽ sớm hoàn thành kế hoạch doanh thu trong quý II hoặc quý III năm nay. Tuy nhiên, việc hoàn thành sản lượng khai thác vẫn là bài toán khó.

Đẩy mạnh thăm dò, tìm kiếm

Thống kê của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), từ năm 2015 đến nay, sản lượng dầu trong nước liên tục sụt giảm, từ mức 16,9 triệu tấn năm 2015 xuống còn 15,2 triệu tấn năm 2016; 13,4 triệu tấn năm 2017; 12 triệu tấn năm 2018; 11 triệu tấn năm 2019 và xấp xỉ 10 triệu tấn trong hai năm 2020 và 2021. Dự báo sản lượng khai thác sẽ tiếp tục giảm trong các năm tiếp theo. Riêng tại Liên doanh Việt-Nga Vietsovpetro, cánh chim đầu đàn của ngành dầu khí Việt Nam, sau khi đạt đỉnh khai thác vào năm 2002 với 13,5 triệu tấn, sản lượng khai thác giảm mỗi năm một triệu tấn. Các năm gần đây, sản lượng chỉ quanh mốc hơn ba triệu tấn. Tại kỳ họp lần thứ 54, Hội đồng Liên doanh Việt-Nga Vietsovpetro thống nhất các chỉ tiêu năm 2022 thì sản lượng được đề ra chỉ ở mức 2,9 triệu tấn dầu/condensate; 65,4 triệu mét khối khí.

Tổng Giám đốc Vietsovpetro Nguyễn Quỳnh Lâm cho biết: Năm 2021, Vietsovpetro phải đối mặt với nhiều khó khăn do sản lượng khai thác tiếp tục suy giảm. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của hai phía, Vietsovpetro đã hoàn thành kế hoạch khai thác hơn ba triệu tấn dầu, đạt 105,5% kế hoạch. Sản lượng khai thác khí thiên nhiên đạt 79,6 triệu mét khối, đạt 109,1% kế hoạch. Doanh thu bán dầu, khí và condensate đạt hơn 1,6 tỷ USD. Sự sụt giảm sản lượng khai thác dầu khí hằng năm là điều thấy rõ và đã được dự báo từ lâu bởi hiện nay, ngành dầu khí gần như không có “của để dành”. Việc phát triển các mỏ mới rất khó khăn, công tác thăm dò, tìm kiếm chưa đáp ứng yêu cầu thực tế.

Qua tìm hiểu, do công tác tìm kiếm, thăm dò có quá nhiều rủi ro, tỷ lệ thành công chỉ ở mức 20%. Trong khi chi phí tìm kiếm, thăm dò dao động trong khoảng từ 10 đến 15 triệu USD/giếng khoan là rất lớn trong bối cảnh giá dầu neo ở mức thấp nhiều năm qua, khiến hoạt động tìm kiếm, thăm dò không được quan tâm đúng mức. Giai đoạn 2016-2020, vốn bố trí cho hoạt động thăm dò, tìm kiếm chỉ bằng 30% so với giai đoạn 2011-2015.

Mặt khác, quy trình thủ tục phê duyệt dự án tìm kiếm, thăm dò đang được triển khai như các dự án đầu tư phát triển khác, cho nên doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước như PVN và các công ty thành viên rất khó thực hiện.

Theo Tổng công ty Thăm dò khai thác dầu khí (PVEP), thời điểm giá dầu thấp, PVEP tập trung tối ưu các hoạt động sửa chữa giếng, nâng cấp thiết bị. Hoạt động tìm kiếm, thăm dò chủ yếu mở rộng tại các dự án khai thác đã có sẵn cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia dầu khí, để gia tăng sản lượng, bảo đảm tính liên tục và ổn định của các công ty khai thác, giải pháp duy nhất vẫn là phát triển và đưa các mỏ mới vào hoạt động.

Áp dụng khoa học-công nghệ

Theo đánh giá, phần lớn các mỏ dầu khí đang khai thác ở nước ta đều có “tuổi đời” từ 15 đến 35 năm, được xếp vào giai đoạn khai thác cuối đời mỏ, có độ ngập nước cao, trung bình ở mức từ 50 đến 90%, dẫn đến sản lượng suy giảm tự nhiên khoảng 15-25%/năm. Tổng Giám đốc Vietsovpetro Nguyễn Quỳnh Lâm cho biết: Để chặn đà sụt giảm sản lượng đã được dự báo từ nhiều năm qua, Vietsovpetro đã xây dựng các giải pháp tối ưu về địa chất kỹ thuật, áp dụng khoa học-công nghệ mới để nâng cao hệ số thu hồi dầu, bảo đảm duy trì sản lượng khai thác. Vietsovpetro đã thực hiện bơm ép nước để bảo tồn áp suất vỉa, tăng hệ số thu hồi dầu khí từ 18% lên hơn 40% đối với thân dầu trong tầng đá móng. Đây là hệ số thu hồi cao nhất trên thế giới hiện nay. Đặc biệt, việc đưa các giàn nhẹ đầu giếng không người vào khai thác các mỏ nhỏ, mỏ cận biên cũng mang lại hiệu quả cao. Điển hình như giàn nhẹ BK-20 hay giàn BK-21 tại mỏ Bạch Hổ thuộc thế hệ mới của Vietsovpetro đều là các giàn không người được điều khiển từ xa, ngay khi đi vào hoạt động đã đóng góp rất lớn vào việc duy trì sản lượng khai thác của toàn Liên doanh…

Tại buổi làm việc với Phó Thủ tướng Lê Văn Thành mới đây, Tổng Giám đốc PVN Lê Mạnh Hùng cho biết: Thời gian qua, Tập đoàn đã phát hiện dầu khí mới tại giếng khoan Sói Vàng-1X Lô 16-1/15 (VSP) và biểu hiện dầu khí tốt tại các giếng khoan: R-62, R-63, BH-59. Tập đoàn đưa ba mỏ/công trình vào khai thác gồm: mỏ Sư Tử Trắng pha 2A, công trình BK-18A và công trình BK-19. Tập đoàn luôn xác định hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Trong thời gian tới, tập đoàn sẽ đẩy mạnh hơn nữa công tác thăm dò, tìm kiếm, nhất là tại các khu vực đang khai thác nhằm tận dụng cơ sở hạ tầng, đồng thời đầu tư tìm kiếm, thăm dò ở khu vực nước sâu, xa bờ; nghiên cứu, thử nghiệm và đưa vào ứng dụng các công nghệ nâng cao hệ số thu hồi dầu…

Tuy nhiên, trong bối cảnh giá dầu dự báo sẽ neo ở mức cao, việc PVN nhanh chóng triển khai các giải pháp nhằm gia tăng sản lượng khai thác là hết sức cần thiết trong thời điểm hiện nay. Bởi việc thay thế các nguồn năng lượng hóa thạch bằng các nguồn năng lượng tái tạo đã và đang là xu thế tất yếu tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, chắc chắn giá trị của các nguồn năng lượng hóa thạch sẽ ngày càng suy giảm.

Theo Báo Nhân dân

Tuổi trẻ Cơ quan Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tích cực tham gia chăm lo đời sống tinh thần người lao độngTuổi trẻ Cơ quan Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tích cực tham gia chăm lo đời sống tinh thần người lao động
Hơn 200 đoàn viên Công đoàn PV Drilling hưởng ứng Giải chạy online Hơn 200 đoàn viên Công đoàn PV Drilling hưởng ứng Giải chạy online "Xuân Dầu khí 2022"
Chi hội Dầu khí Nam Trung Bộ - Tây Nguyên tổ chức thành công Đại hội lần thứ II, nhiệm kỳ 2022 - 2027Chi hội Dầu khí Nam Trung Bộ - Tây Nguyên tổ chức thành công Đại hội lần thứ II, nhiệm kỳ 2022 - 2027

  • bidv-14-4
  • thp
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 149,400 152,400
Hà Nội - PNJ 149,400 152,400
Đà Nẵng - PNJ 149,400 152,400
Miền Tây - PNJ 149,400 152,400
Tây Nguyên - PNJ 149,400 152,400
Đông Nam Bộ - PNJ 149,400 152,400
Cập nhật: 27/11/2025 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,140 15,340
Miếng SJC Nghệ An 15,140 15,340
Miếng SJC Thái Bình 15,140 15,340
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,980 ▲10K 15,280 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,980 ▲10K 15,280 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,980 ▲10K 15,280 ▲10K
NL 99.99 14,160 ▼40K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,160 ▼40K
Trang sức 99.9 14,570 ▲10K 15,170 ▲10K
Trang sức 99.99 14,580 ▲10K 15,180 ▲10K
Cập nhật: 27/11/2025 16:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,514 15,342
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,514 15,343
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 149 1,515
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 149 1,516
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,475 1,505
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,451 14,901
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 105,536 113,036
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 95 1,025
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 84,464 91,964
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 804 879
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 55,415 62,915
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Cập nhật: 27/11/2025 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16697 16966 17541
CAD 18260 18536 19150
CHF 32119 32501 33141
CNY 0 3470 3830
EUR 29939 30212 31237
GBP 34105 34495 35434
HKD 0 3260 3462
JPY 162 166 172
KRW 0 16 18
NZD 0 14783 15372
SGD 19791 20073 20597
THB 734 797 850
USD (1,2) 26109 0 0
USD (5,10,20) 26151 0 0
USD (50,100) 26179 26199 26409
Cập nhật: 27/11/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,189 26,189 26,409
USD(1-2-5) 25,142 - -
USD(10-20) 25,142 - -
EUR 30,203 30,227 31,371
JPY 166.03 166.33 173.26
GBP 34,586 34,680 35,504
AUD 16,989 17,050 17,492
CAD 18,499 18,558 19,086
CHF 32,522 32,623 33,305
SGD 19,964 20,026 20,650
CNY - 3,678 3,775
HKD 3,340 3,350 3,433
KRW 16.68 17.39 18.67
THB 782.87 792.54 843.84
NZD 14,821 14,959 15,306
SEK - 2,741 2,821
DKK - 4,040 4,156
NOK - 2,551 2,626
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,984.84 - 6,712.87
TWD 761.84 - 916.66
SAR - 6,932.91 7,257.22
KWD - 83,900 88,719
Cập nhật: 27/11/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,185 26,189 26,409
EUR 30,017 30,138 31,308
GBP 34,312 34,450 35,463
HKD 3,323 3,336 3,447
CHF 32,256 32,386 33,322
JPY 165.19 165.85 173.01
AUD 16,882 16,950 17,508
SGD 20,001 20,081 20,650
THB 796 799 836
CAD 18,450 18,524 19,083
NZD 14,814 15,342
KRW 17.28 18.90
Cập nhật: 27/11/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26120 26120 26409
AUD 16862 16962 17897
CAD 18439 18539 19550
CHF 32428 32458 34040
CNY 0 3692.1 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 30149 30179 31902
GBP 34446 34496 36248
HKD 0 3390 0
JPY 165.56 166.06 176.6
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14867 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19970 20100 20833
THB 0 763.3 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15140000 15140000 15340000
SBJ 13000000 13000000 15340000
Cập nhật: 27/11/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,200 26,250 26,409
USD20 26,200 26,250 26,409
USD1 26,200 26,250 26,409
AUD 16,906 17,006 18,126
EUR 30,271 30,271 31,388
CAD 18,386 18,486 19,800
SGD 20,019 20,169 20,769
JPY 165.84 167.34 171.5
GBP 34,524 34,674 35,451
XAU 15,138,000 0 15,342,000
CNY 0 3,574 0
THB 0 798 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 27/11/2025 16:00