Nhịp đập năng lượng ngày 5/6/2023

19:05 | 05/06/2023

6,885 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Australia - Việt Nam thúc đẩy quá trình chuyển dịch năng lượng; OPEC+ nhất trí cắt giảm sản lượng dầu trong cả năm 2024; Giá dầu thô có thể tiến sát 100 USD… là những tin tức nổi bật về năng lượng trong nước và quốc tế ngày 5/6/2023.
Ảnh minh họa: Nguyễn Trường Sơn
Ảnh minh họa: Nguyễn Trường Sơn

Australia - Việt Nam thúc đẩy quá trình chuyển dịch năng lượng

Ngày 5/6, Đối thoại chính sách Sáng kiến Tương lai ngành điện Việt Nam (FE-V) được Chính phủ Australia ra mắt với sự hỗ trợ của Ban Kinh tế Trung ương.

Theo đó, FE-V tập trung vào việc nâng cao kiến thức chuyên môn và hiệu quả trong nguồn phát điện, nhiên liệu cho phát điện, lưới điện, thị trường điện và nhu cầu điện. FE-V sẽ là cầu nối để Australia xây dựng mối quan hệ hợp tác lâu dài và tin cậy hơn trong lĩnh vực năng lượng với Việt Nam trong thời gian tới.

Trước đó, ngày 4/6, Thủ tướng Australia Anthony Albanese đã công bố - nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam - khoản hỗ trợ 105 triệu AUD - nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững của Việt Nam, trong đó chuyển dịch năng lượng là lĩnh vực then chốt.

Miền Bắc có nguy cơ thiếu đến 4.900 MW điện

Theo báo cáo mới nhất từ Bộ Công Thương, tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống quốc gia năm 2023 lũy kế đến hết ngày 30/5/2023 đạt 110,6 tỷ kWh, cao hơn 1,1% so với cùng kỳ năm 2022. Cơ cấu sản lượng điện sản xuất của các nguồn điện như: thủy điện chiếm 23,4%, nhiệt điện than chiếm 48%, turbine khí chiếm 12,1%, năng lượng tái tạo chiếm 10,5%, nguồn nhập khẩu chiếm 1,3%, nhiệt điện dầu chiếm 0,32%.

Báo cáo cho biết, trong trường hợp nắng nóng kéo dài, nhu cầu điện có thể tăng cao đột biến trong ngắn hạn, hệ thống điện quốc gia, đặc biệt là hệ thống điện miền Bắc trong cao điểm mùa khô sắp tới (các tháng 6-7) dự kiến sẽ vận hành trong tình trạng căng thẳng. Trong kịch bản cực đoan, hệ thống điện miền Bắc sẽ gặp tình trạng không đáp ứng được phụ tải đỉnh của hệ thống với công suất thiếu hụt lớn nhất lên tới khoảng 1.600-4.900 MW. Trong khi đó, công suất và sản lượng điện nhập khẩu từ Trung Quốc khó tăng thêm khi phía Trung Quốc thông báo về khó khăn thiếu nguồn cung cấp điện.

Do đó, Bộ Công Thương yêu cầu các đơn vị phải nghiêm túc thực hiện kế hoạch cung cấp nhiên liệu và cung cấp than phục vụ cho phát điện đã được Bộ Công Thương phê duyệt và các chỉ đạo của Bộ Công Thương, mục tiêu cao nhất là đảm bảo cung cấp điện cho đất nước. Tập đoàn Điện lực Việt Nam cần tập trung mọi nỗ lực trong vận hành hệ thống điện, có giải pháp cấp bách, trong bất cứ hoàn cảnh nào, hệ thống điện quốc gia phải được đảm bảo...

OPEC+ nhất trí cắt giảm sản lượng dầu trong cả năm 2024

Tại cuộc họp ở Vienna (Áo) ngày 4/6, Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC và các đối tác (gọi chung là OPEC+) đã nhất trí điều chỉnh sản lượng khai thác ở mức 40,46 triệu thùng/ngày trong cả năm 2024, bắt đầu từ ngày 1/1/2024 cho đến ngày 31/12/2024”.

Theo các cam kết sửa đổi trên bảng số liệu do OPEC công bố, Saudi Arabia sẽ duy trì sản lượng dầu thô ở mức 10,478 triệu thùng/ngày, trong khi Nga sẽ cắt giảm sản lượng hàng ngày thêm 650.000 thùng xuống còn 9,828 triệu thùng/ngày kể từ tháng 1/2024.

Theo ước tính, các cam kết sửa đổi của OPEC+ sẽ giảm sản lượng khai thác ở mức tổng cộng khoảng 1,4 triệu thùng/ngày trong năm 2024. Cùng ngày, Bộ Năng lượng Saudi Arabia thông báo trong tháng 7/2023, nước này sẽ giảm sản lượng khai thác ở mức 1 triệu thùng/ngày và có thể tiếp tục kéo dài khoảng thời gian cắt giảm nếu Riyadh thấy cần thiết.

Một số quốc gia khác trong khuôn khổ OPEC+ gồm Iraq, Oman, Algeria, Kuwait, Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE) cũng tuyên bố tự nguyện cắt giảm thêm sản lượng khai thác dầu ở các mức lần lượt là 211.000 thùng/ngày, 40.000 thùng/ngày, 48.000 thùng/ngày, 128.000 thùng/ngày, 144.000 thùng/ngày cho tới cuối năm 2024.

Nga cắt giảm sản lượng 500.000 thùng dầu/ngày đến cuối năm 2024

Phó Thủ tướng Nga Alexander Novak ngày 4/6 cho biết, Nga sẽ gia hạn cắt giảm sản lượng dầu tự nguyện 500.000 thùng mỗi ngày cho đến hết năm 2024. Theo ông Alexander Novak, đây là biện pháp phòng ngừa theo thỏa thuận với các quốc gia tham gia thỏa thuận Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ và các đối tác (OPEC+), những nước đã tuyên bố cắt giảm tự nguyện vào tháng 4.

Phó Thủ tướng Alexander Novak cho hay, quyết định gia hạn thỏa thuận hiện tại đến năm 2024 của các quốc gia OPEC+ cùng với việc một số quốc gia tự nguyện cắt giảm sản lượng sẽ giúp dự báo tình hình thị trường dầu trong 18 tháng tới dễ dàng hơn.

Nga bắt đầu cắt giảm sản lượng 500 nghìn thùng dầu/ngày từ tháng 3. Phó Thủ tướng Alexander Novak nói rằng đây là quyết định tự nguyện giảm sản lượng của Nga, không tham khảo ý kiến ​​của các nước OPEC+. Điều này sẽ giúp khôi phục quan hệ thị trường. Theo ông Alexander Novak, việc cắt giảm sẽ chỉ ảnh hưởng đến sản lượng dầu, không bao gồm khí đốt. Hạn ngạch sản xuất sẽ được phân bổ đồng đều giữa các công ty dầu mỏ tùy thuộc vào năng suất sản xuất.

Giá dầu thô có thể tiến sát 100 USD

Giới phân tích cho rằng động thái giảm sản lượng dầu của Arab Saudi và các thành viên còn lại trong Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ và đồng minh (OPEC+) bao gồm cả Nga sẽ khiến nguồn cung thắt chặt, giúp thiết lập giá sàn 70 USD một thùng cho giá dầu. Dù vậy, việc Arab Saudi giảm sản xuất không kéo giá lên cao ngay lập tức, do hàng tồn kho sẽ phải mất một thời gian nữa mới sụt giảm.

"Với việc Arab Saudi tìm cách bảo vệ giá dầu để không xuống quá thấp, chúng tôi cho rằng khả năng các thị trường dầu thiếu cung cuối năm nay đang lên cao. Giá dầu Brent có thể lên 85 USD một thùng trong quý IV/2023, kể cả nếu nhu cầu tại Trung Quốc yếu", Vivek Dhar - nhà phân tích tại Commonwealth Bank of Australia cho biết.

Các nhà phân tích tại Goldman Sachs cũng dự báo giá dầu tháng 12/2023 là 95 USD một thùng. ANZ thì nhận định: "Nhà đầu tư sẽ đặt cược giá tăng, vì họ tin rằng Arab Saudi và OPEC+ sẽ hỗ trợ nếu thị trường gặp thách thức". Dự báo của họ với giá dầu Brent cuối năm nay là 100 USD một thùng. Tuy nhiên, mức tăng này cũng có thể bị kìm hãm trong ngắn hạn, cho đến khi các dấu hiệu thiếu cung trên thị trường vật chất xuất hiện.

Nhịp đập năng lượng ngày 3/6/2023Nhịp đập năng lượng ngày 3/6/2023
Nhịp đập năng lượng ngày 4/6/2023Nhịp đập năng lượng ngày 4/6/2023

H.T (t/h)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,600 119,600
AVPL/SJC HCM 117,600 119,600
AVPL/SJC ĐN 117,600 119,600
Nguyên liệu 9999 - HN 10,960 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,950 11,190
Cập nhật: 18/06/2025 04:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.000 116.800
TPHCM - SJC 117.600 119.600
Hà Nội - PNJ 114.000 116.800
Hà Nội - SJC 117.600 119.600
Đà Nẵng - PNJ 114.000 116.800
Đà Nẵng - SJC 117.600 119.600
Miền Tây - PNJ 114.000 116.800
Miền Tây - SJC 117.600 119.600
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.000 116.800
Giá vàng nữ trang - SJC 117.600 119.600
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 117.600 119.600
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.000 116.800
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.000 116.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.200 115.700
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.080 115.580
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.370 114.870
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.140 114.640
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.430 86.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.340 67.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.780 48.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.580 106.080
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.230 70.730
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.860 75.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.330 78.830
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.040 43.540
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.830 38.330
Cập nhật: 18/06/2025 04:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,240 11,690
Trang sức 99.9 11,230 11,680
NL 99.99 10,835
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,835
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,450 11,750
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,450 11,750
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,450 11,750
Miếng SJC Thái Bình 11,760 11,960
Miếng SJC Nghệ An 11,760 11,960
Miếng SJC Hà Nội 11,760 11,960
Cập nhật: 18/06/2025 04:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16501 16769 17348
CAD 18692 18970 19588
CHF 31442 31821 32484
CNY 0 3530 3670
EUR 29514 29785 30816
GBP 34528 34920 35855
HKD 0 3192 3394
JPY 173 177 183
KRW 0 18 19
NZD 0 15509 16097
SGD 19803 20085 20616
THB 716 779 833
USD (1,2) 25818 0 0
USD (5,10,20) 25858 0 0
USD (50,100) 25886 25920 26247
Cập nhật: 18/06/2025 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,880 25,880 26,240
USD(1-2-5) 24,845 - -
USD(10-20) 24,845 - -
GBP 34,943 35,037 35,923
HKD 3,261 3,271 3,370
CHF 31,652 31,751 32,558
JPY 176.84 177.16 184.68
THB 764.55 773.99 828.09
AUD 16,772 16,832 17,302
CAD 18,883 18,943 19,501
SGD 19,958 20,020 20,693
SEK - 2,703 2,797
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,973 4,110
NOK - 2,585 2,678
CNY - 3,581 3,678
RUB - - -
NZD 15,469 15,612 16,065
KRW 17.66 18.42 19.88
EUR 29,715 29,739 30,968
TWD 799.14 - 967.49
MYR 5,743.1 - 6,478.43
SAR - 6,829.18 7,188.25
KWD - 82,895 88,137
XAU - - -
Cập nhật: 18/06/2025 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,890 25,900 26,240
EUR 29,520 29,639 30,757
GBP 34,745 34,885 35,881
HKD 3,256 3,269 3,374
CHF 31,434 31,560 32,473
JPY 175.55 176.26 183.54
AUD 16,646 16,713 17,248
SGD 19,984 20,064 20,612
THB 781 784 819
CAD 18,860 18,936 19,469
NZD 15,527 16,035
KRW 18.30 20.17
Cập nhật: 18/06/2025 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25920 25920 26240
AUD 16678 16778 17343
CAD 18873 18973 19527
CHF 31679 31709 32606
CNY 0 3595.5 0
CZK 0 1168 0
DKK 0 4040 0
EUR 29796 29896 30668
GBP 34828 34878 35981
HKD 0 3320 0
JPY 176.64 177.64 184.15
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6390 0
NOK 0 2610 0
NZD 0 15615 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2765 0
SGD 19965 20095 20824
THB 0 746 0
TWD 0 880 0
XAU 11500000 11500000 11950000
XBJ 10000000 10000000 11950000
Cập nhật: 18/06/2025 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,880 25,930 26,180
USD20 25,880 25,930 26,180
USD1 25,880 25,930 26,180
AUD 16,711 16,861 17,935
EUR 29,814 29,964 31,151
CAD 18,794 18,894 20,214
SGD 20,026 20,176 20,658
JPY 176.88 178.38 183.06
GBP 34,952 35,102 35,899
XAU 11,758,000 0 11,962,000
CNY 0 3,478 0
THB 0 781 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 18/06/2025 04:00