Nhiệt điện than thiếu… than

13:23 | 17/09/2019

832 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Nhiệt điện than là nguồn điện chủ lực của đất nước, nhưng đang gặp khó khăn do thiếu nhiên liệu đầu vào. Làm thế nào để có đủ than cho phát điện đang là “bài toán khó” cho cả ngành than và ngành điện.

Nằm ngay tại vùng than Quảng Ninh, nhưng hơn 7 tháng năm 2019, mức dự trữ than của Công ty CP Nhiệt điện Quảng Ninh chỉ bảo đảm cho các tổ máy hoạt động được từ 2-6 ngày, trong khi yêu cầu đặt ra là phải đủ than cho 12 ngày vận hành. Ông Ngô Sinh Nghĩa - Phó tổng giám đốc phụ trách công ty - cho biết, tình hình các tháng cuối năm 2019 còn khó khăn hơn, khi khối lượng than yêu cầu phải là 1,98 triệu tấn, nhưng lượng than còn lại so với hợp đồng đã ký chỉ còn 1,87 triệu tấn.

nhiet dien than thieu than
Kho than của Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn 1

Tại Công ty Nhiệt điện Uông Bí, thời gian qua, việc tổ chức tiếp nhận than gặp rất nhiều khó khăn, lượng than nhập hằng ngày không đáp ứng đủ yêu cầu, khối lượng than dự trữ luôn rất thấp, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Lãnh đạo công ty cho rằng, nếu không sớm được bổ sung nguồn than nhập khẩu để tiến hành pha trộn, nguy cơ phải dừng tổ máy là hiện hữu.

Thực tế, thiếu than đang là nỗi lo chung của hầu hết các nhà máy nhiệt điện than.

Đến năm 2030, dự báo nhu cầu than cho sản xuất điện sẽ lên tới 120 triệu tấn, chiếm hơn 80% tổng nhu cầu than trong nước. Trong khi đó, sản lượng than sản xuất trong nước dự báo chỉ đạt từ 42-50 triệu tấn/năm.

Đại diện Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) cho biết, năm 2019, nhu cầu sử dụng than của các hộ công nghiệp lớn trong nước tăng cao, đặc biệt là than cho sản xuất điện. Chỉ riêng TKV sẽ phải cung cấp khoảng 35,5 triệu tấn cho phát điện, tăng 23% so với năm 2018. Nhu cầu tăng, nhưng khả năng khai thác than của TKV không thể tăng, do trữ lượng than đang dần cạn kiệt và công nghệ khai thác than trong nước gặp nhiều khó khăn khi phải khai thác xuống sâu.

Về lâu dài, đến năm 2030, dự báo nhu cầu than cho sản xuất điện sẽ lên tới 120 triệu tấn, chiếm hơn 80% tổng nhu cầu than trong nước. Trong khi đó, sản lượng than sản xuất trong nước dự báo chỉ đạt 42-50 triệu tấn/năm. Trong tương lai, an ninh năng lượng quốc gia phụ thuộc rất lớn vào nguồn than nhập khẩu. Ngay trong năm 2019, TKV ước tính sẽ phải nhập khẩu 4,7-5 triệu tấn than để pha trộn, bù đắp cho lượng than nội địa còn thiếu hụt.

Hơn nữa, có một vấn đề đặt ra: Không chỉ “gom” đủ số lượng than, mà chủng loại, chất lượng than nhập khẩu cũng là chuyện phải quan tâm. Nếu nhà máy nhiệt điện sử dụng nhiều nguồn than, chủng loại than với chất lượng khác nhau sẽ làm cho lò hơi vận hành không ổn định, tăng suất tiêu hao than, suất hao nhiệt của tổ máy.

Trước tình hình đó, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thường xuyên báo cáo với Bộ Công Thương để kịp thời được tháo gỡ các vướng mắc về nguồn than cho sản xuất điện, đồng thời chủ động làm việc với các đối tác TKV, Tổng công ty Đông Bắc về việc bảo đảm đủ than cho phát điện.

EVN cũng đã giao các tổng công ty phát điện, các công ty nhiệt điện than đàm phán, điều chỉnh hợp đồng cung cấp than năm 2019 và ký kết các hợp đồng than trung hạn, dài hạn với các đối tác, trong đó, EVN lưu ý các doanh nghiệp phải kiểm soát chặt chẽ chất lượng than cũng như tiến độ giao than.

Không chỉ phụ thuộc vào các nhà cung cấp than trong nước, ngay từ năm 2017, EVN đã chủ động nhập than bitum, sub-bitum và từ năm 2019 tiến hành nhập than antraxit.

Việc nhập khẩu than sẽ được EVN thực hiện theo chiến lược lâu dài qua việc tăng cường ký kết các hợp đồng mua than trung, dài hạn với đối tác quốc tế. Các tổng công ty phát điện đã chủ động tìm kiếm, bảo đảm có ít nhất 2 nhà thầu cung cấp nhiên liệu cho các nhà máy điện sử dụng than nhập khẩu, góp phần tăng khả năng dự phòng. Đồng thời, các doanh nghiệp còn tiến hành nạo vét luồng lạch tại các cảng biển, góp phần nâng cao năng lực tiếp nhận các tàu than lớn.

Song song với việc đa dạng hóa nguồn than, EVN cũng yêu cầu các nhà máy nhiệt điện nghiên cứu, khẩn trương ứng dụng giải pháp công nghệ hiện đại, tiến tới xây dựng chế độ vận hành hợp lý các tổ máy phù hợp với các nguồn than khác nhau, qua đó nâng cao độ tin cậy, năng lực vận hành linh hoạt của các nhà máy nhiệt điện than.

Hà Việt