Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười và cuộc chiến giá - lương - tiền

06:30 | 03/10/2018

990 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã có nhiều quyết sách táo bạo giải quyết lạm phát "phi mã" và tình hình bất ổn lương thực. Đồng thời, ông là người mở cửa cho kinh tế hàng hóa.
nguyen tong bi thu do muoi va cuoc chien gia luong tien
Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười vừa từ trần hồi 23h12 ngày 1/10/2018, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.

Quyết định lãi suất tiền gửi vô tiền khoáng hậu

Chia sẻ trên Vietnamfinance, GS.TSKH Nguyễn Mại cho biết, quyết định áp dụng mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm 13%/tháng của Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười là vô tiền khoáng hậu. Nếu không có quyết định táo bạo, sáng suốt đó thì không biết tình trạng lạm phát còn kéo dài bao lâu nữa.

Theo đó, bày tỏ lòng kính trọng một con người chân chính, hết lòng vì nước vì dân, GS.TSKH Nguyễn Mại cho biết: "Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười là nhà lãnh đạo có những quyết sách đúng đắn đưa Việt Nam vượt qua giai đoạn khủng hoảng, suy thoái và phát triển tốt hơn".

Sau Đại hội Đảng VI năm 1986, mặc dù đã có chủ trương đổi mới, nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội của nước ta diễn ra ngày càng nghiêm trọng, lạm phát phi mã, cả nước làm không đủ ăn. Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười thành lập Tổ công tác chống lạm phát.

Được biết, vào thời điểm ông Đỗ Mười được bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (HĐBT) vào năm 1988, lạm phát vẫn còn rất cao. Đến đầu năm 1989, lạm phát vẫn ở 9%/tháng và nếu đà tiếp diễn thì sẽ đạt 110% năm.

Từng có đến hơn 40 đề án chống lạm phát gửi đến ông Đỗ Mười từ rất nhiều cơ quan cả trong và ngoài nước. Thậm chí IMF đưa ra sáng kiến cho Việt Nam vay 2 tỷ đô la để chống lạm phát. Ông Đỗ Mười đọc hết nhưng chưa tán thành bất kỳ đề án nào.

Sau đó, quyết định vận dụng lý thuyết “lãi suất dương” (nghĩa là lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn tỷ lệ lạm phát) vào đầu năm 1988 với mức lãi suất tiền gửi 13%/tháng của Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười đã giúp “cơn sốt” giá cả về cơ bản được hạ nhiệt vào cuối năm 1988.

Cụ thể, ông Mại cho biết, Tổ công tác chống lạm phát đã kiến nghị lãi suất tiền gửi tháng 2/1988 là 13%/tháng; trong khi tỷ lệ lạm phát là 11%/tháng. Sau nhiều buổi tranh luận dân chủ, cân nhắc nhiều yêu tố tác động, Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười chấp thuận kiến nghị đó.

Nói thêm, đây là giai đoạn Việt Nam còn nhờ Liên Xô (cũ) in tiền, tính tổng chi phí kể cả vận chuyển từ Mát-cơ-va về Hà Nội khoảng 5% tổng giá trị các mệnh giá tiền tệ. Do vậy, tưởng như lãi suất tiền gửi 13%/tháng là quá cao, nhưng thực tế đã tiết kiệm được 3% cho ngân sách nhà nước do không phải trả phí in thêm tiền ở nước ngoài.

Hơn thế nữa, TS Mại cho biết do hấp dẫn người dân nên tiền gửi tiết kiệm tăng lên rất nhanh, làm cho cơn sốt giá cả được giảm dần. Tháng 6/1988 Chính phủ quyết định giảm dần lãi suất tiền gửi xuống 9%/tháng, tháng 9 còn 5%/tháng đã xuất hiện tình trạng người dân rút tiền tiết kiệm.

Để ứng phó kịp thời tình hình mới, gần như hàng ngày Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đều gọi điện thoại cho TS Mại để nghe báo cáo diễn biến mới nhất tại thủ đô.

UBND Hà Nội sau đó nhận thức được nguyên nhân chủ yếu là tâm lý người dân nên lệnh cho Ngân hàng thành phố bơm đủ tiền tại các Quỹ tiết kiệm để bảo đảm người dân thoải mái khi rút tiền. Chỉ 5 ngày sau mọi việc trở nên bình thường, người dân có lòng tin nên đã gửi tiền tiết kiệm trở lại.

Cuối năm 1988 cơn sốt giá cả về cơ bản được hạ nhiệt. Cùng với thành quả ban đầu của Đổi mới và hội nhập, cuối năm 1990 cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội đã được khắc phục về cơ bản.

“Quyết định của Chủ tịch HĐBT áp dụng mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm 13%/thàng là vô tiền khoáng hậu. Nếu không có quyết định táo bạo, sáng suốt đó thì không biết tình trạng lạm phát còn kéo dài bao lâu nữa. Đây là phẩm chất đáng quý của người đứng đầu Chính phủ”, GS.TSKH Nguyễn Mại viết.

Mở cửa kinh tế hàng hoá

Là người từng tham gia nhóm tư vấn cho Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười về chống lạm phát, chia sẻ trên Vietnamnet, ông Võ Đại Lược cho biết thêm, ông Đỗ Mười từng phàn nàn mỗi năm phải in thêm 300 tỷ đồng để bù mua nông sản của nông dân với giá đắt rồi bán như cho không ở thành phố. Ông băn khoăn, điều này cũng gây lạm phát.

nguyen tong bi thu do muoi va cuoc chien gia luong tien
Hình ảnh xếp hàng mua lương thực bằng tem phiếu tại cửa hàng mậu dịch giờ cao điểm.

Với ý kiến của ông Võ Đại Lược về việc “để nhân dân tự do mua bán lương thực, thực phẩm”, ông Đỗ Mười sau đó đã ban hành Chỉ thị cho dân tự do buôn bán hàng hóa, lương thực, thực phẩm thủ đô. Chẳng bao lâu, các chợ ở Hà Nội tràn ngập hàng hóa, Hà Nội dư thừa lương thực ngay lập tức và các cửa hàng mậu dịch không còn cảnh xếp hàng.

Ông Lược cho biết:"Sau Tết âm 1989, ông Mười cho triển khai chính sách đó trên toàn quốc. Nhờ đó, hệ thống tem phiếu cũng được bỏ đi."

Tiếp theo đó, Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười còn đưa ra nhiều quyết sách liên quan đến chính sách mở cửa. Như yêu cầu Tổng Cục Hải quan bỏ luôn chế độ kiểm soát, không còn thuế má, bắt bớ. Giúp hàng hóa từ Liên Xô, Thái Lan đổ vào Việt Nam. “Khi ông Đỗ Mười cho tự do lưu thông hàng hóa, vấn đề thiếu lương thực mới thực sự được giải quyết”, ông Lược nhấn mạnh.

nguyen tong bi thu do muoi va cuoc chien gia luong tien
Hình ảnh phiếu lương thực, những tem phiếu này sau đó được bỏ đi sau Chỉ thị cho dân tự do buôn bán hàng hóa, lương thực, thực phẩm của Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười năm 1989.

Đầu năm 1989, ông Mười còn ký văn bản chỉ thị nhập khẩu 200.000 tấn lương thực nhưng đến giữa năm thì lương thực bắt đầu dư thừa, đến cuối năm Việt Nam xuất khẩu được 1 triệu tấn lương thực. Đó là năm đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam xuất khẩu được 1 triệu tấn lương thực. Cuối năm 1989, dự trữ ngoại tệ vọt lên 200 triệu đô la từ 20 triệu đô la hồi đầu năm.

“Cuối năm ông Mười ngạc nhiên lắm, gọi tôi lên nói “Tôi hết sức bất ngờ. Tôi không phải in thêm tiền mà lại có thêm dự trữ”. Tôi đáp: “Đó là do ta thực hiện kinh tế hàng hóa để người dân và doanh nghiệp kinh doanh”, ông Võ Đại Lược chia sẻ.

Cuộc chống lạm phát như vậy là thành công. Mức lạm phát từ 9%/tháng tụt xuống còn 1-2%/tháng, thậm chí có tháng âm. Các tổ chức quốc tế đánh giá thành công của Việt Nam là kỳ diệu.

Theo Enternews.vn

nguyen tong bi thu do muoi va cuoc chien gia luong tien Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười và cuộc chống lạm phát 700% sau Đổi mới
nguyen tong bi thu do muoi va cuoc chien gia luong tien “Gạch nối lịch sử” mang tên Tổng Bí thư Đỗ Mười
nguyen tong bi thu do muoi va cuoc chien gia luong tien Ngày bình dị ở tư gia nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,000 118,000
AVPL/SJC HCM 116,000 118,000
AVPL/SJC ĐN 116,000 118,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 07/06/2025 00:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.000 114.400
TPHCM - SJC 116.000 118.000
Hà Nội - PNJ 112.000 114.400
Hà Nội - SJC 116.000 118.000
Đà Nẵng - PNJ 112.000 114.400
Đà Nẵng - SJC 116.000 118.000
Miền Tây - PNJ 112.000 114.400
Miền Tây - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.000 114.400
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.000
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.000 114.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.000 114.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.300 113.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.190 113.690
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.490 112.990
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.260 112.760
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.000 85.500
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.220 66.720
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.990 47.490
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.840 104.340
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.070 69.570
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.620 74.120
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.030 77.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.330 42.830
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.200 37.700
Cập nhật: 07/06/2025 00:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,010 11,440
Trang sức 99.9 11,000 11,430
NL 99.99 10,760
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,760
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,220 11,500
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,220 11,500
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,220 11,500
Miếng SJC Thái Bình 11,600 11,800
Miếng SJC Nghệ An 11,600 11,800
Miếng SJC Hà Nội 11,600 11,800
Cập nhật: 07/06/2025 00:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16377 16645 17221
CAD 18508 18785 19404
CHF 31053 31431 32086
CNY 0 3530 3670
EUR 29113 29382 30413
GBP 34442 34833 35784
HKD 0 3188 3391
JPY 173 178 184
KRW 0 18 19
NZD 0 15386 15979
SGD 19708 19990 20520
THB 714 777 831
USD (1,2) 25784 0 0
USD (5,10,20) 25823 0 0
USD (50,100) 25851 25885 26230
Cập nhật: 07/06/2025 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,842 34,937 35,867
HKD 3,262 3,272 3,371
CHF 31,242 31,339 32,210
JPY 177.2 177.52 185.46
THB 761.53 770.94 825.07
AUD 16,692 16,753 17,208
CAD 18,808 18,869 19,378
SGD 19,916 19,978 20,610
SEK - 2,671 2,765
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,926 4,062
NOK - 2,540 2,629
CNY - 3,590 3,687
RUB - - -
NZD 15,393 15,536 15,992
KRW 17.83 - 19.97
EUR 29,331 29,354 30,605
TWD 786.63 - 952.32
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,650 87,991
XAU - - -
Cập nhật: 07/06/2025 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 07/06/2025 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25865 25865 26225
AUD 16556 16656 17221
CAD 18685 18785 19344
CHF 31308 31338 32212
CNY 0 3590 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29383 29483 30256
GBP 34760 34810 35912
HKD 0 3270 0
JPY 177.23 178.23 184.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15500 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19863 19993 20726
THB 0 743.7 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10000000 10000000 11750000
Cập nhật: 07/06/2025 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,220
USD20 25,850 25,900 26,220
USD1 25,850 25,900 26,220
AUD 16,582 16,732 17,810
EUR 29,397 29,547 30,747
CAD 18,618 18,718 20,048
SGD 19,919 20,069 20,561
JPY 177.53 179.03 183.83
GBP 34,818 34,968 35,785
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,471 0
THB 0 778 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 07/06/2025 00:02