Người Hàn đã mệt mỏi với “văn hóa làm thêm giờ”?

20:52 | 16/02/2014

3,997 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Người Hàn Quốc nổi tiếng là chăm chỉ và làm thêm giờ đã trở thành một trong những nét văn hóa đặc trưng của xứ sở kim chi. Tập quán này được nhiều thế hệ người Hàn tự hào, xem là một trong những động lực chính đưa nước này từ một nước lạc hậu, nghèo đói trong thập niên 60-70 của thế kỷ trước trở thành một quốc gia phồn thịnh như hiện tại. Tuy nhiên, theo thời gian, người Hàn đã có cách nghĩ khác về “văn hóa làm thêm giờ” và điều đó được thể hiện trong dự luật lao động sửa đổi mới giới thiệu ở nước này.

Năng lượng Mới số 296

Theo dự luật sửa đổi, số giờ làm việc tối đa trong một tuần, tính cả thứ Bảy, Chủ nhật, không được quá 52 giờ/tuần. Thời gian làm việc vào những ngày nghỉ cuối tuần sẽ được tính là giờ làm thêm, không giống như một “công việc kỳ nghỉ” riêng biệt được xác định theo pháp luật lao động hiện hành.

Hiện nay, ở Hàn Quốc có quy định chính thức cho phép làm việc không quá 68 giờ trong một tuần. Trong đó có 40 giờ làm việc bình thường, 12 giờ làm thêm và 16 giờ làm việc vào cuối tuần và những ngày lễ. Tất nhiên, 68 giờ là thời gian tối đa có thể trong một tuần làm việc. Trên thực tế, thời gian làm việc của người dân Hàn Quốc thường là ngắn hơn, nhưng họ vẫn làm việc rất nhiều. Bằng chứng là trong số các quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), không lao động nước nào có số giờ làm việc nhiều hơn lao động Hàn Quốc. Theo dữ liệu của OECD, năm 2012, thời gian làm việc hằng năm của những nhân viên được trả lương ở Hàn Quốc lên tới 2.163 giờ. Để so sánh, người Mỹ làm việc trung bình 1.790 giờ trong một năm, còn người Pháp chỉ làm 1.479 giờ/năm (ít hơn một lần rưỡi so với Hàn Quốc).

Người Hàn Quốc mệt mỏi với việc phải làm thêm giờ

Nói cho công bằng, người dân Hàn Quốc sẵn sàng làm việc chăm chỉ. Hình ảnh nhiều tòa nhà văn phòng vẫn còn sáng đèn sau 20 giờ không có gì xa lạ ở Hàn Quốc - nơi một ngày làm việc kéo dài hơn 10 giờ đồng hồ. Chính sự hy sinh và làm việc chăm chỉ của hàng triệu người dân trong một thời gian dài đã góp phần không nhỏ làm nên phép lạ kinh tế Hàn Quốc - một đất nước hầu như không có tài nguyên thiên nhiên. Việc làm thêm giờ mà không được trả thêm tiền cũng không bị mấy người phàn nàn bởi nhiều người nhận thức rằng, đó là một đức tính tốt. Hơn nữa, ở Hàn Quốc, việc nhân viên kết thúc công việc và về sớm hơn chủ xem ra là một điều hiếm thấy. Có thể những người này lo đánh mất cơ hội thăng tiến của mình nếu rời bàn làm việc sớm hơn chủ nhưng cũng có thể, chỉ đơn giản đó là một điều không… bình thường ở Hàn Quốc.

Tuy nhiên, bây giờ là thời đại khác. Dù Hàn Quốc vẫn có những vấn đề, nhưng, nói chung, đây là một quốc gia giàu có, thịnh vượng, với trình độ giáo dục cao và người dân nước này không có ý định cống hiến toàn bộ cuộc đời cho lao động.

Một mặt, điều đó không còn là nhu cầu thiết yếu: nạn đói không đe dọa ai. Mặt khác, người dân của các nước phát triển muốn nghỉ ngơi, đi du lịch, dành nhiều thời gian cho bạn bè và gia đình. Nói chung, họ muốn có thời gian cho niềm vui trong cuộc sống.

Những thay đổi trong văn hóa lao động đang diễn ra cả theo sáng kiến, nguyện vọng của chính phủ và những người lao động. Những người cao tuổi vẫn có thói quen sống tại nơi làm việc. Nhưng, những người trẻ có thái độ khác đối với việc làm thêm giờ. Những bà vợ Hàn Quốc không chấp nhận tình hình khi người chồng trở về nhà chỉ vào cuối tuần. Họ muốn để người chồng về nhà vào khoảng 19-20 giờ, mà đó là điều không thể tưởng tượng được theo tiêu chuẩn của thế hệ cao tuổi. Vào buổi tối, người Hàn Quốc hiếm khi đến nhà hàng hoặc quán bia để nói chuyện thoải mái với các đồng nghiệp hoặc khách hàng. Ngày càng có nhiều nhân viên văn phòng trẻ Hàn Quốc làm theo gương đồng nghiệp Pháp hoặc Đức - cuối ngày làm việc họ đứng dậy, nói lời tạm biệt và thản nhiên đi về nhà.

Tất nhiên, đây chưa phải là thói quen của đa số người khi những người nắm quyền lực hiện tại ở các doanh nghiệp chủ yếu là những người đã từng trải qua chiến tranh, đói nghèo và phải lao động cật lực như người Nhật Bản vào thời kỳ nhảy vọt. Theo dữ liệu của Bộ Lao động, vào năm 2012, 45% người Hàn Quốc đã làm thêm giờ. Tuy nhiên, trong tương lai, xu thế giảm giờ làm sẽ phát triển. Một khi kinh tế Hàn Quốc phát triển đến tầm cao và khi thế hệ thanh niên hiện nay nắm được một vị trí quan trọng trong công ty, lúc ấy văn hóa làm thêm giờ của người Hàn Quốc sẽ mai một.

Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc cũng khuyến khích xu hướng này. Năm 2004, Bộ Lao động Hàn Quốc đã đưa ra chính sách làm việc 40 giờ/tuần đối với các công ty có hơn 1.000 nhân viên và quy định ngày thứ bảy là ngày nghỉ trong các tổ chức công cộng và các doanh nghiệp lớn. Bộ Y tế Hàn Quốc hồi tháng 1/2010 cũng ra thông báo yêu cầu tất cả các văn phòng mỗi tháng một lần phải tắt điện trước 19 giờ 30 nhằm khuyến khích các nhân viên về nhà sớm để có nhiều thời gian chăm sóc gia đình. Dự luật lao động sửa đổi là bước tiếp theo hướng này - cải thiện chất lượng cuộc sống và nâng cao hiệu suất lao động. Các lĩnh vực khác và cấu trúc xã hội của Hàn Quốc ngày càng giống châu Âu hơn.

Những thay đổi này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế Hàn Quốc? Chắc là cũng không có lý do đáng để lo ngại về điều đó. Hàn Quốc đã vượt qua giai đoạn khi số lượng lao động đóng vai trò quan trọng nhất từ lâu. Bây giờ điều quan trọng hơn là chất lượng và hiệu quả. Thực tiễn của các nước châu Âu với tuần làm việc ngắn cho thấy rõ rằng, để sống tốt, nên làm việc tận tâm và hiệu quả, nhưng không nhất thiết phải làm việc từ sáng đến tối.

Linh Linh (tổng hợp)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 73,450 74,400
Nguyên liệu 999 - HN 73,350 74,300
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 25/04/2024 08:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.300 ▼200K 84.300 ▼200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 25/04/2024 08:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,320 7,525
Trang sức 99.9 7,310 7,515
NL 99.99 7,315
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,295
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,385 7,555
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,385 7,555
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,385 7,555
Miếng SJC Thái Bình 8,210 ▼30K 8,430 ▼10K
Miếng SJC Nghệ An 8,210 ▼30K 8,430 ▼10K
Miếng SJC Hà Nội 8,210 ▼30K 8,430 ▼10K
Cập nhật: 25/04/2024 08:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,500 ▼1000K 83,800 ▼700K
SJC 5c 81,500 ▼1000K 83,820 ▼700K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,500 ▼1000K 83,830 ▼700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,900
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 75,000
Nữ Trang 99.99% 72,900 74,100
Nữ Trang 99% 71,366 73,366
Nữ Trang 68% 48,043 50,543
Nữ Trang 41.7% 28,553 31,053
Cập nhật: 25/04/2024 08:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,099.42 16,262.04 16,783.75
CAD 18,096.99 18,279.79 18,866.22
CHF 27,081.15 27,354.69 28,232.26
CNY 3,433.36 3,468.04 3,579.84
DKK - 3,572.53 3,709.33
EUR 26,449.58 26,716.75 27,899.85
GBP 30,768.34 31,079.13 32,076.18
HKD 3,160.05 3,191.97 3,294.37
INR - 304.10 316.25
JPY 159.03 160.63 168.31
KRW 16.01 17.78 19.40
KWD - 82,264.83 85,553.65
MYR - 5,261.46 5,376.21
NOK - 2,279.06 2,375.82
RUB - 261.17 289.12
SAR - 6,753.41 7,023.40
SEK - 2,294.19 2,391.60
SGD 18,200.78 18,384.62 18,974.42
THB 606.76 674.18 700.00
USD 25,147.00 25,177.00 25,487.00
Cập nhật: 25/04/2024 08:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,251 16,351 16,801
CAD 18,296 18,396 18,946
CHF 27,329 27,434 28,234
CNY - 3,467 3,577
DKK - 3,595 3,725
EUR #26,724 26,759 28,019
GBP 31,266 31,316 32,276
HKD 3,171 3,186 3,321
JPY 160.18 160.18 168.13
KRW 16.65 17.45 20.25
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,271 2,351
NZD 14,829 14,879 15,396
SEK - 2,284 2,394
SGD 18,207 18,307 19,037
THB 631.12 675.46 699.12
USD #25,145 25,145 25,477
Cập nhật: 25/04/2024 08:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,185.00 25,187.00 25,487.00
EUR 26,723.00 26,830.00 28,048.00
GBP 31,041.00 31,228.00 3,224.00
HKD 3,184.00 3,197.00 3,304.00
CHF 27,391.00 27,501.00 28,375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16,226.00 16,291.00 16,803.00
SGD 18,366.00 18,440.00 19,000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18,295.00 18,368.00 18,925.00
NZD 14,879.00 15,393.00
KRW 17.79 19.46
Cập nhật: 25/04/2024 08:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25195 25195 25487
AUD 16325 16375 16880
CAD 18364 18414 18869
CHF 27519 27569 28131
CNY 0 3469.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26892 26942 27645
GBP 31326 31376 32034
HKD 0 3140 0
JPY 161.93 162.43 166.97
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0346 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14885 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18459 18509 19066
THB 0 646 0
TWD 0 779 0
XAU 8230000 8230000 8400000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 25/04/2024 08:45