Ngành ngân hàng đồng hành cùng doanh nghiệp

13:42 | 19/05/2017

929 lượt xem
|
Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đào Minh Tú, việc giảm chi phí của các ngân hàng thương mại nằm trong chương trình chung của nhiều năm qua và các ngân hàng thương mại cũng đã rất tích cực thực hiện nhằm giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
nganh ngan hang dong hanh cung doanh nghiep
PVcomBank là ngân hàng đã triển khai nhiều gói tín dụng cho vay ưu đãi với khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp ngày 17/5, Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng cho biết, mặt bằng lãi suất hiện nay đã giảm mạnh, chỉ bằng 40% lãi suất cuối năm 2011. Thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất- kinh doanh để có điều kiện giảm lãi suất cho vay, đặc biệt quan tâm đến lãi suất ưu đãi đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ưu tiên.

Theo Thống đốc Lê Minh Hưng, tăng trưởng tín dụng năm 2016 đạt 18,25%. Năm 2017, tín dụng tăng trưởng tốt ngay từ đầu năm, đến cuối tháng 4/2017, tín dụng tăng 5,76% so với cuối năm 2016, cao hơn so với cùng kỳ các năm gần đây, trong đó tín dụng VNĐ tăng 5,87% và tín dụng ngoại tệ tăng 4,64%.

Trong thời gian tới, ngành ngân hàng sẽ tiếp tục tập trung vốn vào lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, trong đó đặc biệt là các dự án hiệu quả, các doanh nghiệp, dự án đầu tư có chiều sâu, ứng dụng khoa học công nghệ để sản xuất các sản phẩm thương hiệu Việt Nam cạnh tranh được trong khu vực và thị trường thế giới; các doanh nghiệp sản xuất theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp sạch, các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV).

Đồng thời, NHNN sẽ tiếp tục nghiên cứu, đổi mới cách thức cấp tín dụng theo hướng có sự chọn lọc ưu tiên phân loại doanh nghiệp, góp phần vào các chương trình tái cơ cấu sản xuất.

Về điều hành lãi suất và mong muốn đề nghị hạ lãi suất tín dụng của doanh nghiệp, Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay diễn biến ổn định từ năm 2016 đến nay, đặc biệt từ cuối tháng 9/2016, một số TCTD đã giảm 0,3- 0,5%/năm lãi suất huy động, giảm 0,5- 1%/năm lãi suất cho vay đối với sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên.

“Như vậy, mặt bằng lãi suất hiện nay đã giảm mạnh, chỉ bằng 40% lãi suất cuối năm 2011, phù hợp với mục tiêu điều hành, diễn biến tiền tệ và lạm phát, đồng thời đảm bảo hài hòa lợi ích của người gửi tiền, TCTD và khách hàng vay” - Thống đốc Lê Minh Hưng khẳng định.

Tại buổi họp báo, trả lời câu hỏi của phóng viên về tạo điều kiện về vốn cho các DNNVV phát triển, việc tăng cường vốn cho các đối tượng này có đi ngược với những mục tiêu đặt ra là làm thế nào hạn chế tối đa việc giảm tỉ lệ nợ xấu và giảm rủi ro cho các ngân hàng, Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho rằng: Không có gì là ngược, đây là việc hết sức đồng thuận. Giảm chi phí có nhiều hình thức, nhưng có một việc thiết yếu là làm thế nào giảm lãi suất cho vay, tạo điều kiện cho DNNVV.

Lý giải thêm về câu hỏi của phóng viên, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông cho rằng, dường như có cảm giác rằng mở rộng cho vay đối với DNNVV là nguyên nhân dẫn đến nợ xấu, cần phải làm rõ vấn đề này. Thống kê trong thời gian qua cho thấy, nợ xấu ở khu vực DNNVV rất thấp. Ở Agribank, tỉ lệ nợ xấu cho vay đúng đối tượng DNNVV và những đối tượng nông nghiệp, nông dân và nông thôn thì nợ xấu lúc cao nhất là dưới 2% và sau đó xuống dưới 1,5%. Còn theo số liệu mới nhất, Ngân hàng Chính sách xã hội (VBSP) là nơi cho người nghèo vay vốn, đây là các đối tượng khó khăn trong xã hội, nhưng tỉ lệ nợ xấu dưới 1,5%, đây là tỉ lệ nợ xấu rất thấp. "Nói vậy để chúng ta đừng hiểu lầm cho DNNVV vay nhiều thì dẫn đến nợ xấu", ông Đông nhấn mạnh.

Tại cuộc họp báo, phóng viên đặt câu hỏi về chương trình tín dụng 100.000 tỷ đồng để phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Tuy nhiên, có một vấn đề là chúng ta vừa phải tiến hành giải cứu lợn, trước đó thì giải cứu dưa hấu, vải... Một nền nông nghiệp còn khá manh mún, nhỏ lẻ nhưng hình như có dấu hiệu sản xuất thừa. Khi chúng ta tiếp tục đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao thì bài toán thừa sẽ được giải quyết như thế nào?

Trả lời câu hỏi trên, Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết, về việc giải cứu lợn, dưa hấu, chúng ta đã có quá nhiều thông tin. Vấn đề này cũng được làm rất rõ rồi. Chính phủ cũng như các bộ, ngành rất quyết liệt xử lý, đã có hiệu quả trong thời gian gần đây rồi.

Phó Thống đốc cho rằng, về phía ngân hàng, theo chỉ đạo của Chính phủ cũng như sự phối hợp rất chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì ngành ngân hàng chủ động dành ra 100.000 tỷ đồng, nhưng không phải cứ để riêng 100.000 tỷ đồng để chờ cho vay, khi nào dự án cũng như các DN có nhu cầu và thấy có hiệu quả có thể giải ngân thì mới thực hiện giải ngân.

“Việc sử dụng 100.000 tỷ đồng chương trình tín dụng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của các DN ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp là một định hướng chủ đạo, xu hướng hết sức cần thiết trong lúc này bởi có thực hiện được mục tiêu, yêu cầu này thì sản phẩm trong nông nghiệp mới có thể cạnh tranh được không chỉ ở trong nước mà còn trên thế giới” - Phó Thống đốc nói.

Lý giải thêm về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông cho rằng: Lợn, dưa hấu, vải không phải là sản xuất nhỏ mà là sản xuất lớn theo quy mô của tổng sản phẩm, nhưng nhỏ theo khía cạnh là các hộ sản xuất nhỏ lẻ.

Theo Thứ trưởng Đặng Huy Đông: Thứ nhất, cần phát triển theo tư duy cụm liên kết ngành và chuỗi giá trị, tất cả những người giỏi nhất, DN tốt nhất, công nghệ tốt nhất trong chuỗi giá trị được tham gia để nâng cao tính cạnh tranh cả về chất lượng và giá cả. Thứ hai là phải vào tổ chức, đặc biệt là các DN nhỏ, các hộ kinh doanh thì phải vào tổ chức, có thể là hiệp hội, có thể là hợp tác xã (HTX), Liên hiệp HTX để có những tổ chức pháp nhân chính thức giúp bước ra thị trường một cách chững chạc, ngang ngửa về sức mạnh so với các DN trên thương trường trong nước cũng như quốc tế.

N.Q

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 149,400 ▲700K 152,400 ▲700K
Hà Nội - PNJ 149,400 ▲700K 152,400 ▲700K
Đà Nẵng - PNJ 149,400 ▲700K 152,400 ▲700K
Miền Tây - PNJ 149,400 ▲700K 152,400 ▲700K
Tây Nguyên - PNJ 149,400 ▲700K 152,400 ▲700K
Đông Nam Bộ - PNJ 149,400 ▲700K 152,400 ▲700K
Cập nhật: 26/11/2025 11:45
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,140 ▲50K 15,340 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 15,140 ▲50K 15,340 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 15,140 ▲50K 15,340 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 15,000 ▲50K 15,300 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 15,000 ▲50K 15,300 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 15,000 ▲50K 15,300 ▲50K
NL 99.99 14,280 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,280 ▲50K
Trang sức 99.9 14,590 ▲50K 15,190 ▲50K
Trang sức 99.99 14,600 ▲50K 15,200 ▲50K
Cập nhật: 26/11/2025 11:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,514 ▲5K 15,342 ▲50K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,514 ▲5K 15,343 ▲50K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 149 ▲1K 1,515 ▲10K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 149 ▲1K 1,516 ▲10K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,475 ▲10K 1,505 ▲10K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,451 ▲99K 14,901 ▲99K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 105,536 ▲750K 113,036 ▲750K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 95 ▼9337K 1,025 ▼9157K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 84,464 ▲610K 91,964 ▲610K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 804 ▼79013K 879 ▼86438K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 55,415 ▲417K 62,915 ▲417K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 ▲5K 1,534 ▲5K
Cập nhật: 26/11/2025 11:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16619 16888 17462
CAD 18209 18485 19100
CHF 32078 32460 33105
CNY 0 3470 3830
EUR 29933 30206 31234
GBP 33998 34388 35322
HKD 0 3260 3461
JPY 162 166 172
KRW 0 17 19
NZD 0 14697 15283
SGD 19742 20024 20538
THB 733 797 851
USD (1,2) 26106 0 0
USD (5,10,20) 26148 0 0
USD (50,100) 26176 26196 26403
Cập nhật: 26/11/2025 11:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,183 26,183 26,403
USD(1-2-5) 25,136 - -
USD(10-20) 25,136 - -
EUR 30,110 30,134 31,280
JPY 165.65 165.95 172.91
GBP 34,346 34,439 35,248
AUD 16,856 16,917 17,359
CAD 18,421 18,480 19,002
CHF 32,355 32,456 33,119
SGD 19,889 19,951 20,574
CNY - 3,675 3,772
HKD 3,341 3,351 3,433
KRW 16.74 17.46 18.75
THB 781.55 791.2 841.88
NZD 14,664 14,800 15,152
SEK - 2,729 2,808
DKK - 4,028 4,144
NOK - 2,544 2,618
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,991.18 - 6,719.99
TWD 761.07 - 916.32
SAR - 6,931.85 7,256.12
KWD - 83,751 88,676
Cập nhật: 26/11/2025 11:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,183 26,403
EUR 29,924 30,044 31,176
GBP 34,096 34,233 35,203
HKD 3,323 3,336 3,444
CHF 32,078 32,207 33,098
JPY 164.89 165.55 172.49
AUD 16,749 16,816 17,353
SGD 19,908 19,988 20,529
THB 795 798 834
CAD 18,374 18,448 18,982
NZD 14,665 15,174
KRW 17.34 18.94
Cập nhật: 26/11/2025 11:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26170 26170 26403
AUD 16781 16881 17809
CAD 18381 18481 19496
CHF 32310 32340 33931
CNY 0 3687.5 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 30096 30126 31851
GBP 34278 34328 36091
HKD 0 3390 0
JPY 165.68 166.18 176.73
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14800 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19882 20012 20740
THB 0 762.7 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15140000 15140000 15340000
SBJ 13000000 13000000 15340000
Cập nhật: 26/11/2025 11:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,190 26,240 26,403
USD20 26,190 26,240 26,403
USD1 23,889 26,240 26,403
AUD 16,789 16,889 18,010
EUR 30,196 30,196 31,327
CAD 18,308 18,408 19,724
SGD 19,949 20,099 20,715
JPY 165.59 167.09 171.76
GBP 34,316 34,466 35,253
XAU 15,088,000 0 15,292,000
CNY 0 3,571 0
THB 0 798 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/11/2025 11:45