Mắc nợ vì lợi ích chung của nền kinh tế!

07:00 | 04/01/2015

1,054 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đang nợ khoảng 1,5 triệu tỉ đồng. Số nợ này sinh ra từ đâu và liệu rằng nó có đáng lo ngại như những gì người ta đang nói về vai trò của các DNNN hay không?

Thi công kéo cáp ra đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi)

Báo cáo của Chính phủ về tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2013 của các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn hoặc góp cổ phần tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XIII cho thấy, tổng số nợ phải trả của các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước tính đến hết năm 2013 là hơn 1,5 triệu tỉ đồng, gấp 1,45 lần so với vốn chủ sở hữu và tăng 9% so với năm 2012. Trong đó, số vay nợ từ nước ngoài là gần 326 ngàn tỉ đồng, bao gồm các khoản vay lại vốn ODA của Chính phủ, vay nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh và các khoản tự vay, tự trả.

Sau khi thông tin trên được công bố, rất nhiều ý kiến cho rằng “sức khoẻ” của các DNNN đang có vấn đề!

Lo ngại này liệu có hợp lý hay không? Các DNNN vay nợ để làm gì, phục vụ mục đích gì?

Trả lời câu hỏi này, ông Nguyễn Đức Kiên-Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Quốc hội cho rằng, không có gì phải hoảng loạn, lo sợ cả bởi tỉ lệ số nợ trên tổng tài sản của doanh nghiệp, trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp vẫn chấp nhận được.

Ông Kiên cũng chỉ ra rằng, trong số các DNNN, rất nhiều doanh nghiệp đã mang nợ vay đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông.

Cụ thể, theo ông Kiên, khi phát triển các dự án đường giao thông, doanh nghiệp phải đi vay vốn để triển khai nhưng nhiều khi, một thời gian dài sau đó, nhà nước vẫn chưa trả cho doanh nghiệp.

“Cái nợ đọng xây dựng cơ bản đó chính là nguyên nhân làm cho sức cạnh tranh của doanh nghiệp ngành giao thông bị giảm sút nghiêm trọng. Nếu tính từ thời điểm 1995 khi chúng ta bắt đầu có đấu thầu quốc tế, đến thời điểm năm 2014 này thì năng lực tài chính của các doanh nghiệp trong lĩnh vực giao thông giảm sút nghiêm trọng vì chúng ta đã nợ doanh nghiệp quá lâu rồi cho nên người ta phải bỏ tiền ra làm và một loạt dự án chúng ta chậm trả nợ”-ông Kiên nói.

Cùng nói về vấn đề này nhưng dưới một góc độ khác, TS Nguyễn Quốc Ngữ, Vụ Kinh tế, Văn phòng Trung ương Đảng khẳng định: DNNN giữ vai trò quyết định trong việc cung cấp những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân như xăng dầu, điện... là lực lượng chủ đạo thực hiện các chính sách xã hội thông qua các doanh nghiệp công ích. Sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước trong các ngành hạ tầng như giao thông, năng lượng, bưu chính viễn thông, dịch vụ... tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.

Nói như vậy để thấy rằng, vấn đề nợ của các DNNN không đơn thuần là nợ để sản xuất, kinh doanh mà còn là vay nợ để đầu tư cơ sở hạ tầng, phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội địa phương, hiệu quả của nó nằm ở lâu dài chứ không phải trong ngắn hạn. Chuyện của ngành điện là một ví dụ điển hình như vậy.

Trong những năm qua, thực hiện mục tiêu “điện đi trước một bước” nhằm đáp ứng các nhu cầu gia tăng sản lượng điện hàng năm của nền kinh tế, cũng như tạo tiền đề phát triển kinh tế các vùng miền trên cả nước, mỗi năm Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã phải đầu tư hàng trăm ngàn tỉ đồng vào phát triển hệ thống lưới điện. Số vốn đầu tư lớn là vậy nhưng lợi nhuận mà EVN thu về hàng năm lại vô cùng khiêm tốn, có khi bằng 0.

Số liệu được Bộ Công Thương đưa ra tại buổi công bố giá thành sản xuất kinh doanh điện năm 2013 cho thấy, tổng cộng lãi hoạt động sản xuất kinh doanh điện và các hoạt động liên quan đến hoạt động điện năm 2013 của EVN là 4.938,44 tỉ đồng. Tuy nhiên, theo báo cáo của cơ quan kiểm toán độc lập (Công ty TNHH Deloitte Việt Nam), tổng chi phí chênh lệch tỷ giá chưa hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh điện đến 31/12/2013 là 8.811,71 tỉ đồng.

Khả năng tích luỹ vốn thấp, thậm chí bằng 0 nhưng trên tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, một loạt các dự án cấp điện cho các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo... với số vốn đầu tư lên tới hàng ngàn tỉ đồng vẫn được EVN triển khai, đảm bảo chất lượng và tiến độ. Và hầu hết các dự án này sau khi hoàn thành đều có những đóng góp vô cùng quan trọng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhiều địa phương. Có thể kể đến các dự án như cấp điện ra đảo Cô Tô (Quảng Ninh), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quốc (Kiên Giang)...

Bỏ ra cả trăm, cả ngàn tỉ đồng như vậy nhưng số tiền mà ngành điện thu về lại rất khiêm tốn và theo các nói của ông Hồ Mạnh Tuấn-Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Điện lực miền Bắc thì, nếu xét đến yếu tố lợi nhuận thì sẽ chẳng có bất kỳ doanh nghiệp nào đầu tư vào những dự án kiểu như vậy. Vốn lớn, tỉ suất đầu tư trên hộ gia đình cao, doanh thu thì lại thấp khiến thời gian thu hồi vốn của nhà đầu tư kéo dài.

Làm đường giao thông ở huyện Yên Lập, Phú Thọ.

Đó chỉ là một trong rất nhiều “cái khó” của DNNN đã và đang phải đối diện. Tuy nhiên, khác với các thành phần kinh tế khác, DNNN vốn dĩ khi sinh ra đã mang trong mình những trọng trách nhất định với nền kinh tế, với xã hội nên những dự án “chẳng có bất kỳ doanh nghiệp nào đầu tư vào” vẫn được triển khai. Và dĩ nhiên, để triển khai nó, các DNNN phải đi vay vốn và đó là nợ, nợ đầu tư xây dựng cơ bản, nợ đầu tư hạ tầng xã hội...

Vậy nói “sức khoẻ” của DNNN có vấn đề liệu có đúng? Số nợ mà các doanh nghiệp này đang gánh liệu có đáng lo ngại và rằng, nói hiệu quả hoạt động của các DNNN thấp có thoả đáng hay không?

Trở lại câu chuyện của ngành điện, ngành điện đang rất cần vốn để đầu tư phát triển hệ thống lưới điện nhằm đáp ứng nhu cầu gia tăng sản lượng điện tiêu thụ của nền kinh tế. Tuy nhiên, trước những khó khăn chung của nền kinh tế, giá điện vẫn chưa được điều chỉnh tăng để đảm bảo khả năng tích luỹ, tái đầu tư của ngành. Ngành điện vẫn phải chấp nhận bán điện với giá thấp hơn giá thành sản xuất kinh doanh để phục vụ lợi ích chung của cả nền kinh tế. Và song hành với đó, ngành điện cũng phải hàng ngàn tỉ đồng để đầu tư, phát triển hệ thống lưới điện. Đây là một nghịch lý trong kinh doanh và cái nghịch lý này đang khiến EVN mắc nợ hàng ngàn tỉ đồng.

PGS.TS Nguyễn Đắc Hưng trong một cuộc hội thảo đề cập tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam sau 5 năm gia nhập WTO đã thẳng thắn chỉ ra rằng, EVN là doanh nghiệp thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh điện. Vì vậy, những khoản lỗ do giá bán thấp hơn giá thành của Tập đoàn (điều này dẫn tới những khoản lỗ lên tới hàng ngàn tỉ đồng của EVN-PV) phải được hạch toán vào giá điện.

Thực tế tìm hiểu của phóng viên cho thấy, những năm qua, để triển khai các dự án phát triển hệ thống lưới điện, bên cạnh việc vay vốn của các tổ chức tín dụng trong nước, EVN phải vay bằng USD của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB), đồng Yên của Nhật Bản, EUR của các tổ chức tín dụng Bắc Âu. Do vậy khi gặp biến động tài chính trên thị trường thế giới thì EVN dễ bị tổn thương, đặc biệt là biến động của tỷ giá. Ví như năm 2011, khoản lỗ do chênh lệch tỉ giá mà EVN phải gánh lên tới 15.000 tỉ đồng. Hay như năm 2013, khoản lỗ này cũng lên tới gần 9.000 tỉ đồng.

Nợ của DNNN một phần không nhỏ sinh ra như vậy, cần một cái nhìn toàn cục khi đánh giá về nợ của DNNN.

Thanh Ngọc

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,900 120,900
AVPL/SJC HCM 118,900 120,900
AVPL/SJC ĐN 118,900 120,900
Nguyên liệu 9999 - HN 10,830 11,250
Nguyên liệu 999 - HN 10,820 11,240
Cập nhật: 06/07/2025 19:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.800 117.400
TPHCM - SJC 118.900 120.900
Hà Nội - PNJ 114.800 117.400
Hà Nội - SJC 118.900 120.900
Đà Nẵng - PNJ 114.800 117.400
Đà Nẵng - SJC 118.900 120.900
Miền Tây - PNJ 114.800 117.400
Miền Tây - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.800
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.100 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.980 116.480
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.270 115.770
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.030 115.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.100 87.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.860 68.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.160 48.660
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.410 106.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.780 71.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.440 75.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.940 79.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.380 43.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.130 38.630
Cập nhật: 06/07/2025 19:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,270 11,710
Trang sức 99.9 11,260 11,700
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,470 11,770
Miếng SJC Thái Bình 11,890 12,090
Miếng SJC Nghệ An 11,890 12,090
Miếng SJC Hà Nội 11,890 12,090
Cập nhật: 06/07/2025 19:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16611 16880 17475
CAD 18701 18979 19604
CHF 32300 32683 33345
CNY 0 3570 3690
EUR 30185 30459 31504
GBP 34919 35312 36264
HKD 0 3202 3406
JPY 174 178 184
KRW 0 18 20
NZD 0 15550 16152
SGD 19985 20268 20809
THB 723 786 842
USD (1,2) 25902 0 0
USD (5,10,20) 25942 0 0
USD (50,100) 25971 26005 26360
Cập nhật: 06/07/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,990 25,990 26,350
USD(1-2-5) 24,950 - -
USD(10-20) 24,950 - -
GBP 35,342 35,438 36,328
HKD 3,275 3,285 3,384
CHF 32,596 32,697 33,515
JPY 177.99 178.31 185.87
THB 771.36 780.88 835.42
AUD 16,913 16,974 17,452
CAD 18,967 19,028 19,583
SGD 20,159 20,222 20,899
SEK - 2,691 2,784
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,062 4,202
NOK - 2,553 2,642
CNY - 3,605 3,702
RUB - - -
NZD 15,540 15,684 16,143
KRW 17.73 18.49 19.96
EUR 30,389 30,413 31,655
TWD 816.31 - 987.42
MYR 5,792.07 - 6,533.33
SAR - 6,861.31 7,221.27
KWD - 83,422 88,692
XAU - - -
Cập nhật: 06/07/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,010 26,010 26,350
EUR 30,234 30,355 31,484
GBP 35,175 35,316 36,313
HKD 3,270 3,283 3,388
CHF 32,425 32,555 33,488
JPY 177.34 178.05 185.45
AUD 16,872 16,940 17,483
SGD 20,199 20,280 20,834
THB 788 791 827
CAD 18,952 19,028 19,563
NZD 15,655 16,166
KRW 18.42 20.23
Cập nhật: 06/07/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26000 26000 26350
AUD 16806 16906 17479
CAD 18901 19001 19558
CHF 32579 32609 33495
CNY 0 3618.3 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30473 30573 31345
GBP 35227 35277 36388
HKD 0 3330 0
JPY 177.81 178.81 185.33
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15663 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20162 20292 21020
THB 0 753.3 0
TWD 0 900 0
XAU 11700000 11700000 12090000
XBJ 10800000 10800000 12090000
Cập nhật: 06/07/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,000 26,050 26,300
USD20 26,000 26,050 26,300
USD1 26,000 26,050 26,300
AUD 16,854 17,004 18,070
EUR 30,513 30,663 31,841
CAD 18,851 18,951 20,273
SGD 20,242 20,392 20,865
JPY 178.35 179.85 184.5
GBP 35,327 35,477 36,265
XAU 11,928,000 0 12,132,000
CNY 0 3,503 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 06/07/2025 19:00