Tin tức kinh tế ngày 16/9: IMF hạ dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam 2025 xuống 6,5%

21:11 | 16/09/2025

63 lượt xem
|
(PetroTimes) - IMF hạ dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam 2025 xuống 6,5%; Việt Nam dự kiến huy động thêm 370 triệu USD ODA; Người Việt đang sở hữu gần 138 triệu thẻ tài chính… là những tin tức kinh tế đáng chú ý ngày 16/9.
Tin tức kinh tế ngày 16/9: IMF hạ dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam 2025 xuống 6,5%

Giá vàng đảo chiều tăng

Ngày 16/9, giá vàng miếng SJC được giao dịch ở mức 130,3 -132,3 triệu đồng/lượng. Như vậy, so với phiên hôm qua, chiều mua vào của vàng miếng SJC đã tăng thêm 1,7 triệu đồng/lượng, trong khi chiều bán ra cũng tăng 1,2 triệu đồng/lượng.

Tương tự, giá vàng nhẫn cũng tăng lên 126,5 - 129,5 triệu đồng/lượng. Với mức giá này, vàng nhẫn đang thấp hơn vàng miếng SJC khoảng 3 triệu đồng/lượng.

Giá vàng trong nước tăng trở lại theo đà đi lên mạnh mẽ của giá thế giới. Trên thị trường quốc tế, kim loại quý sáng nay được giao dịch ở mức 3.681 USD/ounce, tăng gần 50 USD/ounce (tương đương mức tăng 1,6 triệu đồng/lượng).

Việt Nam dự kiến huy động thêm 370 triệu USD ODA

Bộ Tài chính cho biết, Việt Nam đã huy động gần 450 triệu USD vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài trong 8 tháng năm 2025. Dự kiến, từ nay đến cuối năm, con số này có thể tăng thêm khoảng 370 triệu USD.

Trong giai đoạn 2021-2025, trung bình mỗi năm, Việt Nam huy động từ 800 triệu đến 1 tỷ USD vốn ODA và vốn vay ưu đãi, ngoại trừ năm 2022 bị sụt giảm mạnh do ảnh hưởng của dịch COVID-19.

Tuy nhiên, tiến độ giải ngân vốn vẫn còn chậm so với kế hoạch. Cụ thể, đến hết năm 2024, tổng số vốn ODA giải ngân đạt hơn 66.500 tỷ đồng, mới bằng 22% kế hoạch vốn đầu kỳ. Riêng 8 tháng năm 2025, các cơ quan trung ương và địa phương giải ngân được hơn 3.500 tỷ đồng, tương đương 15,3% kế hoạch cả năm.

Trước nhu cầu vốn rất lớn cho các công trình hạ tầng, y tế, giáo dục, thích ứng biến đổi khí hậu và chuyển đổi xanh, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 242 nhằm đơn giản hóa thủ tục, phân cấp thẩm quyền và tạo hành lang pháp lý để cả khu vực công và tư nhân tiếp cận nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi.

IMF hạ dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam 2025 xuống 6,5%

IMF vừa điều chỉnh dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm 2025 từ 6,8% còn 6,5%, viện dẫn bối cảnh thương mại quốc tế thay đổi trong đó có chính sách thuế mới của Mỹ và các rủi ro nội tại như cung ứng điện.

Cơ quan này đồng thời nhận định nền kinh tế Việt Nam vẫn có sức bật nhờ xuất khẩu phục hồi và dòng vốn FDI, nhưng cần cải cách để duy trì đà tăng trưởng cao và bền vững.

Xuất khẩu cá ngừ gặp khó, Thủ tướng chỉ đạo "nóng"

Văn phòng Chính phủ có Văn bản số 8640/VPCP-NN truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính về việc xử lý thông tin phản ánh liên quan đến xuất khẩu cá ngừ.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP), xuất khẩu cá ngừ Việt Nam đang chững lại khi kim ngạch tháng 7 giảm 20% so với cùng kỳ, kéo lũy kế 7 tháng xuống còn gần 542 triệu USD, thấp hơn 3% so với năm trước.

VASEP cho biết, từ ngày 7/8, Mỹ bắt đầu áp thuế đối ứng mới cho từng quốc gia. Sự chênh lệch về mức thuế áp cho các sản phẩm của Việt Nam với các nước đối thủ như Thái Lan, Indonesia hay Ecuador… đang làm giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam.

Bên cạnh đó, những bất ổn về địa chính trị, logistics và biến động nhu cầu tại một số thị trường trọng điểm như Nga, Israel, Chile… cũng đang tác động không nhỏ tới xuất khẩu sang các thị trường này.

Trong khi đó, những nút thắt về quy định trong hoạt động đánh bắt, chế biến và xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam vẫn chưa được tháo gỡ. Doanh nghiệp cá ngừ đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Do đó, Hiệp hội dự báo năm nay cá ngừ Việt Nam khó có thể bứt phá và giữ vững được thị phần.

Về việc này, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính giao Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường nghiên cứu thông tin báo nêu; chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan đánh giá tình hình xuất khẩu cá ngừ năm 2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc theo thẩm quyền và quy định.

Người Việt đang sở hữu gần 138 triệu thẻ tài chính

Báo cáo của FiinGroup cho biết, đến cuối năm 2024, tổng số thẻ tài chính lưu hành, bao gồm thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ và thẻ trả trước, đã đạt gần 138 triệu.

Giai đoạn 2019 - 2024, tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) của thị trường đạt 5,8%, cho thấy sự phát triển ổn định nhưng có sự phân hóa rõ rệt giữa các loại thẻ. Số liệu này được tổng hợp từ 39 ngân hàng thương mại thành viên Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) cùng 4 công ty tài chính phát hành thẻ tín dụng gồm FE Credit, Home Credit, JACCs và VietCredit.

Thẻ ghi nợ tiếp tục giữ vị trí áp đảo với khoảng 122,7 triệu thẻ, tương đương gần 89% tổng số thẻ lưu hành. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng đã chững lại, chỉ đạt mức CAGR 6,1% trong giai đoạn 2019 - 2024, phản ánh rằng giai đoạn bùng nổ đã qua.

Ngược lại, thẻ tín dụng đang chứng tỏ sức hút lớn khi tăng trưởng bình quân 19,1% mỗi năm, nâng thị phần lên hơn 8%, tương đương trên 11 triệu thẻ. Sự bứt phá này cho thấy người tiêu dùng, đặc biệt là giới trẻ, ngày càng ưa chuộng chi tiêu linh hoạt, hưởng ưu đãi khuyến mãi và dễ dàng tiếp cận tín dụng.

P.V (T/h)

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 145,000 148,000
Hà Nội - PNJ 145,000 148,000
Đà Nẵng - PNJ 145,000 148,000
Miền Tây - PNJ 145,000 148,000
Tây Nguyên - PNJ 145,000 148,000
Đông Nam Bộ - PNJ 145,000 148,000
Cập nhật: 04/11/2025 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,700 14,900
Miếng SJC Nghệ An 14,700 14,900
Miếng SJC Thái Bình 14,700 14,900
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,600 14,900
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,600 14,900
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,600 14,900
NL 99.99 14,070
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,070
Trang sức 99.9 14,060 14,890
Trang sức 99.99 14,070 14,900
Cập nhật: 04/11/2025 02:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 147 149
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 147 14,902
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 147 14,903
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,439 1,464
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,439 1,465
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,424 1,454
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 13,946 14,396
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 101,711 109,211
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 91,532 99,032
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 81,353 88,853
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 77,427 84,927
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 53,288 60,788
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 147 149
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 147 149
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 147 149
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 147 149
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 147 149
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 147 149
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 147 149
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 147 149
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 147 149
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 147 149
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 147 149
Cập nhật: 04/11/2025 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16691 16960 17539
CAD 18209 18485 19100
CHF 31945 32326 32971
CNY 0 3470 3830
EUR 29671 29943 30965
GBP 33727 34116 35047
HKD 0 3254 3456
JPY 163 168 174
KRW 0 17 19
NZD 0 14726 15313
SGD 19646 19927 20448
THB 726 789 842
USD (1,2) 26048 0 0
USD (5,10,20) 26089 0 0
USD (50,100) 26118 26137 26347
Cập nhật: 04/11/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,103 26,103 26,347
USD(1-2-5) 25,059 - -
USD(10-20) 25,059 - -
EUR 29,942 29,966 31,129
JPY 167.46 167.76 174.96
GBP 34,175 34,268 35,105
AUD 16,991 17,052 17,516
CAD 18,467 18,526 19,069
CHF 32,404 32,505 33,212
SGD 19,824 19,886 20,525
CNY - 3,648 3,748
HKD 3,331 3,341 3,427
KRW 17.05 17.78 19.11
THB 776.24 785.83 836.69
NZD 14,768 14,905 15,268
SEK - 2,733 2,815
DKK - 4,006 4,125
NOK - 2,564 2,641
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,870.31 - 6,592.03
TWD 772.73 - 931.24
SAR - 6,910.84 7,240.89
KWD - 83,574 88,457
Cập nhật: 04/11/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,125 26,127 26,347
EUR 29,709 29,828 30,952
GBP 33,917 34,053 35,033
HKD 3,317 3,330 3,438
CHF 32,085 32,214 33,115
JPY 166.73 167.40 174.40
AUD 16,864 16,932 17,480
SGD 19,843 19,923 20,463
THB 788 791 826
CAD 18,414 18,488 19,025
NZD 14,788 15,287
KRW 17.64 19.30
Cập nhật: 04/11/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26173 26173 26347
AUD 16876 16976 18007
CAD 18387 18487 19608
CHF 32185 32215 33931
CNY 0 3659.8 0
CZK 0 1210 0
DKK 0 4100 0
EUR 29838 29868 31773
GBP 34032 34082 36065
HKD 0 3390 0
JPY 167.17 167.67 179.18
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.196 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2600 0
NZD 0 14840 0
PHP 0 423 0
SEK 0 2773 0
SGD 19804 19934 20662
THB 0 755.3 0
TWD 0 855 0
SJC 9999 14700000 14700000 14900000
SBJ 13000000 13000000 14900000
Cập nhật: 04/11/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,128 26,178 26,347
USD20 26,128 26,178 26,347
USD1 23,839 26,178 26,347
AUD 16,936 17,036 18,145
EUR 30,035 30,035 31,352
CAD 18,368 18,468 19,777
SGD 19,895 20,045 21,190
JPY 167.74 169.24 173.82
GBP 34,163 34,313 35,079
XAU 14,608,000 0 14,812,000
CNY 0 3,546 0
THB 0 791 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 04/11/2025 02:00