Kinh tế Việt Nam - Điểm sáng hiếm hoi

07:00 | 15/10/2022

120 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Bangkokpost.com ngày 19-9-2022 đăng bài viết “Đỉnh cao so với phần còn lại”, nhấn mạnh trong bối cảnh toàn cầu lo ngại về lạm phát và lãi suất tăng, Việt Nam nổi lên như một điểm sáng kinh tế hiếm hoi với tăng trưởng GDP ổn định, là “miền đất hứa” cho các nhà đầu tư.
Kinh tế Việt Nam - Điểm sáng hiếm hoi
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục tăng trưởng tốt

Báo Financial Times (Anh) ngày 26-9-2022 đã đăng bài viết phân tích về nhóm “7 kỳ quan kinh tế thế giới”, trong đó có Việt Nam. Bài báo nêu rõ không quá bất ngờ khi Việt Nam nằm trong danh sách 7 nước có hoạt động kinh tế hiệu quả và coi đây là minh chứng điển hình cho thấy các chính sách của Chính phủ đang phát huy hiệu quả. Việt Nam đang tăng trưởng gần 7%, tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới.

Trong khi đó, nhật báo La Repubblica (Italia) nhận định, năm 2022 Việt Nam sẽ trở thành “con hổ mới” ở châu Á sau khi Ngân hàng Thế giới (WB) nâng dự báo tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam...

Gần đây, WB, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) khi công bố các dự báo về triển vọng kinh tế ngắn hạn đều đánh giá tích cực về Việt Nam và lạc quan rằng, vượt ra ngoài những hạn chế chung, kinh tế Việt Nam có cơ hội bước vào giai đoạn phát triển tốt.

IMF đã nâng mức dự báo tăng trưởng của Việt Nam lên 7% trong năm 2022, cao hơn 1 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra 3 tháng trước và là sự điều chỉnh tăng mạnh duy nhất trong số các nền kinh tế lớn ở châu Á. Dù theo IMF, tăng trưởng của Việt Nam năm 2023 có thể giảm còn 6,7%, nhưng con số này vẫn đi ngược với viễn cảnh u ám ở các nước khác và là mức tăng trưởng nhanh nhất trong số các nền kinh tế lớn của châu Á.

Kinh tế Việt Nam - Điểm sáng hiếm hoi
Sản xuất công nghiệp được khôi phục ở hầu hết các ngành

Tương tự, trong báo cáo cập nhật tình hình kinh tế khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, WB dự báo Việt Nam dẫn đầu khu vực với mức tăng trưởng 7,2%, tăng từ dự báo 5,3% đưa ra hồi tháng 4-2022.

Trong khi đó, ADB dù hạ mức dự báo của hầu hết các nước trong khu vực nhưng vẫn giữ nguyên triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam với GDP dự kiến tăng 6,5% năm 2022 và 6,7% năm 2023. ADB tin rằng Việt Nam là nền kinh tế có mức tăng trưởng mạnh nhất ở Đông Nam Á trong năm 2022 và 2023.

UNDP đánh giá cao việc Việt Nam có đủ khả năng để khôi phục đà phát triển đã bị đình trệ do đại dịch Covid-19 và quản lý tốt những bất ổn liên quan đến các cuộc khủng hoảng, đặc biệt ấn tượng khi Việt Nam đã cố gắng duy trì tăng trưởng kinh tế trong những năm khó khăn nhất của đại dịch.

Phân tích về những yếu tố giúp Việt Nam duy trì hoạt động kinh tế khả quan trong bối cảnh khó khăn chung, hầu hết các tổ chức, chuyên gia kinh tế đều chỉ ra những động lực chính, trong đó nhấn mạnh Chính phủ đã áp dụng những chính sách đúng đắn và kịp thời giúp Việt Nam nhanh chóng tìm được con đường thuận lợi để khôi phục kinh tế hậu đại dịch Covid-19.

Theo IMF và ADB, trong nửa đầu năm 2022, kinh tế Việt Nam phục hồi nhanh chóng sau khi nới lỏng các biện pháp kiểm soát và áp dụng chiến lược sống chung với Covid-19 cũng như tiến hành chiến dịch tiêm chủng.

Hoạt động di chuyển trong nước trở lại hoàn toàn bình thường và việc dỡ bỏ các hạn chế đi lại sau đại dịch Covid-19 đối với khách nước ngoài góp phần thúc đẩy du lịch phục hồi mạnh mẽ trong nửa cuối năm 2022, là động lực tăng trưởng cho ngành dịch vụ.

Chính phủ thực hiện các chính sách hỗ trợ như lãi suất thấp, tăng trưởng tín dụng mạnh, chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội... Chính sách linh hoạt và thích ứng của Chính phủ đã giúp các ngành du lịch, vận tải có thể phục hồi ấn tượng trong năm 2022.

Bên cạnh đó, theo IMF, nhờ chủ động sản xuất lương thực và thực phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước nên áp lực lạm phát của Việt Nam xuất hiện chủ yếu ở một số hàng hóa như nhiên liệu và các dịch vụ liên quan như vận tải. Người tiêu dùng hầu như không bị ảnh hưởng bởi giá thực phẩm tăng vọt trên toàn cầu vì nguồn cung trong nước dồi dào.

ADB đánh giá cao chính sách tiền tệ “thận trọng” của Việt Nam và việc kiểm soát giá hiệu quả, đặc biệt đối với các mặt hàng xăng dầu, giúp kiềm chế lạm phát ở mức 3,8% năm 2022 và 4,0% năm 2023, không thay đổi so với dự báo đã đưa ra trong báo cáo Triển vọng phát triển châu Á vào tháng 4-2022.

Dù vậy, trong bối cảnh nguy cơ suy thoái bao trùm toàn cầu, kinh tế Việt Nam cũng sẽ khó tránh bị tác động.

Theo IMF, trên đà phục hồi kinh tế, Việt Nam cũng gặp phải những trở ngại do tăng trưởng toàn cầu giảm tốc, nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm sút, đặc biệt là từ các đối tác thương mại quan trọng như Mỹ, Trung Quốc và EU.

Tương tự, ADB nhận định, tình trạng thiếu hụt lao động có thể sẽ tác động đến sự phục hồi nhanh chóng của các ngành dịch vụ và sản xuất hàng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động trong năm 2022.

Ngoài ra, theo IMF, Việt Nam đang siết chặt các quy định tài chính khi Mỹ và các nền kinh tế phát triển khác tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát. Việc này làm tăng chi phí tài chính và có thể khiến dòng vốn chảy ra ngoài.

UNDP lưu ý, thách thức lớn với kinh tế Việt Nam là biến đổi khí hậu khiến người dân phải di dời và tác động tới sinh kế, ảnh hưởng nghiêm trọng tới mức độ phát triển con người ở những khu vực dễ bị tổn thương nhất. Thách thức tiếp theo là sự phát triển kinh tế của Việt Nam phụ thuộc vào xu hướng tăng trưởng ở phần còn lại của thế giới. Xung đột ở Ukraine, căng thẳng giữa các nước lớn, giá cả tăng cao và sự gián đoạn đối với các mô hình thương mại toàn cầu là những nguyên nhân quan trọng gây ra sự thiếu chắc chắn.

Các tổ chức trên đều chung nhận định rằng, với những yếu tố này thì các nhà hoạch định chính sách phải linh hoạt và mau chóng thích ứng với các biện pháp hiệu quả. Chính sách tài khóa cần đi đầu trong việc hỗ trợ phục hồi, nên được điều chỉnh linh hoạt để phù hợp với các điều kiện kinh tế đang biến động. Ngân hàng Nhà nước cần tập trung vào rủi ro lạm phát gia tăng và sẵn sàng hành động khi cần thiết, cam kết đạt được mục tiêu lạm phát. Các cơ quan chức năng cần tiếp tục xử lý các vấn đề trong hệ thống ngân hàng và giám sát chặt chẽ các rủi ro tiềm ẩn trên thị trường bất động sản để bảo đảm ổn định tài chính.

Ngay cả sau nhiều thập niên đạt được những thành tựu ấn tượng, Việt Nam vẫn cần phải cải cách kinh tế sâu rộng để đạt được các mục tiêu phát triển như kỳ vọng.

Tổng cục Thống kê cho biết, 9 tháng năm 2022, GDP tăng 8,83% so với cùng kỳ năm 2021. Tăng trưởng GDP quý III/2022 đạt 13,67% so với quý III/2021. Đây là kết quả hết sức tích cực, vượt cao so với những dự báo trước.

Lê Anh

IMF hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu, cảnh báo IMF hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu, cảnh báo "điều tồi tệ nhất chưa đến"
Chính sách tiền tệ góp phần hiệu quả kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tếChính sách tiền tệ góp phần hiệu quả kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế
Ông Trương Văn Phước: Ổn định tỷ giá là Ông Trương Văn Phước: Ổn định tỷ giá là "phòng tuyến sông Cầu"

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 ▲1250K 75,450 ▲1250K
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 ▲1250K 75,350 ▲1250K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Cập nhật: 26/04/2024 22:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
TPHCM - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Hà Nội - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Hà Nội - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Đà Nẵng - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Đà Nẵng - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Miền Tây - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Miền Tây - SJC 83.000 ▲1000K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 ▲800K 74.500 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 ▲600K 56.030 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 ▲460K 43.730 ▲460K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 ▲330K 31.140 ▲330K
Cập nhật: 26/04/2024 22:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 ▲80K 7,590 ▲80K
Trang sức 99.9 7,375 ▲80K 7,580 ▲80K
NL 99.99 7,380 ▲80K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Nghệ An 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Hà Nội 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Cập nhật: 26/04/2024 22:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 ▲1000K 85,200 ▲900K
SJC 5c 83,000 ▲1000K 85,220 ▲900K
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 ▲1000K 85,230 ▲900K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 ▲700K 75,500 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 ▲700K 75,600 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 73,700 ▲800K 74,700 ▲700K
Nữ Trang 99% 71,960 ▲693K 73,960 ▲693K
Nữ Trang 68% 48,451 ▲476K 50,951 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 28,803 ▲292K 31,303 ▲292K
Cập nhật: 26/04/2024 22:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,265 16,285 16,885
CAD 18,236 18,246 18,946
CHF 27,223 27,243 28,193
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,549 3,719
EUR #26,273 26,483 27,773
GBP 31,126 31,136 32,306
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 157.27 157.42 166.97
KRW 16.22 16.42 20.22
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,222 2,342
NZD 14,833 14,843 15,423
SEK - 2,246 2,381
SGD 18,061 18,071 18,871
THB 632.61 672.61 700.61
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 22:00