Khủng hoảng ngân hàng đã kích hoạt dòng vốn tháo chạy từ dầu mỏ sang vàng

14:56 | 27/03/2023

1,903 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Sự sụp đổ đột ngột của Ngân hàng Thung lũng Silicon (SVB) đã gây ra làn sóng chấn động khắp toàn bộ lĩnh vực tài chính và đánh dấu sự thất bại lớn nhất của ngành ngân hàng kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Khủng hoảng ngân hàng đã kích hoạt dòng vốn tháo chạy từ dầu mỏ sang vàng

Là ngân hàng giao dịch công khai duy nhất tập trung vào Thung lũng Silicon và các công ty khởi nghiệp trong 4 thập kỷ, sự sụp đổ chóng vánh đã đặc biệt làm náo loạn cộng đồng đầu tư mạo hiểm và khiến các công ty khởi nghiệp công nghệ khí hậu rơi vào khủng hoảng.

Thị trường năng lượng cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực, với giá dầu giảm xuống mức thấp nhất trong nhiều năm. Giá dầu giảm một cách ngoạn mục, với dầu thô Mỹ WTI giảm từ 80,46 USD/thùng xuống còn 67 USD, trong khi dầu Brent giảm từ 86,18 USD/thùng xuống còn 73 USD, mức mà chuẩn dầu này chạm vào lần cuối hồi tháng 12/2021.

Các nhà phân tích hàng hóa tại Standard Chartered cảnh báo rằng sự sụp đổ của giá dầu đã trở nên trầm trọng hơn do hoạt động phòng ngừa rủi ro - cụ thể là do hiệu ứng phòng ngừa rủi ro, với việc các ngân hàng bán dầu để quản lý các quyền chọn của họ khi giá giảm.

Hiệu ứng giá tiêu cực đã trở nên trầm trọng hơn bởi vì những khó khăn chính từ các quyền chọn mua của nhà khai thác hiện chiếm một phạm vi giá hẹp.

Và giờ đây, báo cáo Cam kết của Thương nhân (CoT) mới nhất do Ủy ban Giao dịch Hàng hóa Tương lai (CFTC) công bố đã tiết lộ nguồn tiền từ dầu mỏ đã chảy về đâu.

Các nhà phân tích hàng hóa tại Standard Chartered đã kết hợp dữ liệu CoT với dữ liệu tương đương của Sàn giao dịch liên lục địa (ICE) và phát hiện ra rằng dầu thô và xăng đã bị bán mạnh, kết hợp với sự chuyển dịch nhanh chóng của các quỹ sang kim loại quý bốn ngày sau sự sụp đổ của SVB, cũng như sáu ngày trước khi dầu Brent chạm mức thấp nhất trong 14 tháng với 70,12 USD/thùng.

Thật vậy, bạc và vàng đã tăng ròng ở các vị thế mua trong khi tất cả các loại dầu thô và sản phẩm thô khác ngoài dầu sưởi và khí đốt tự nhiên đều tăng ròng ở các vị thế bán.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi giá vàng đã tăng gần 9% kể từ ngày 10/3 và hiện ở mức 1995 USD/Oz, không còn xa mức cao nhất mọi thời đại, trong khi giá bạc đã tăng vọt hơn 16% để giao dịch ở mức 23,35 USD/Oz.

Nỗi sợ ngân hàng kéo dài

Các thị trường đã mở rộng sự lo lắng sau khi Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất hôm 22/3 phù hợp với kỳ vọng. Fed cũng cho biết chu kỳ tăng lãi suất hiện tại sắp kết thúc. StanChart dự kiến ​​các hiệu ứng gamma của tuần trước sẽ đảo ngược hướng đi khi các ngân hàng mua lại các vị thế, do đó củng cố sự phục hồi ngắn hạn.

Ngoài ra, StanChart cho biết giá dầu phần lớn sẽ được quyết định bởi sự thay đổi chính sách tồn kho chiến lược của OPEC và các nước tiêu thụ.

Tuy nhiên, giá dầu, sau khi phục hồi trong thời gian ngắn, tiếp tục đối mặt với áp lực bán đáng kể, với cả dầu thô WTI và dầu Brent đều giảm 2,5% trong phiên giao dịch hồi cuối tuần vừa qua. Rõ ràng, những lo ngại về ngân hàng chưa thể sớm kết thúc và tình trạng này có thể kéo dài trong một thời gian.

Thị trường dường như đang phản ứng với một số bi kịch ngân hàng có thể diễn ra. Theo đó, cổ phiếu của Deutsche Bank (Đức) đã giảm 11% vào ngày 24/3 sau khi các hợp đồng hoán đổi nợ xấu bắt đầu tăng cao hơn. Các hợp đồng hoán đổi tín dụng được sử dụng để bảo đảm các khoản nợ của ngân hàng trước rủi ro vỡ nợ và lãi suất tăng có nghĩa là thị trường cho rằng rủi ro vỡ nợ của Deutsche Bank đang tăng lên.

"Tâm lý cơ bản vẫn còn thận trọng và trong môi trường này, không ai muốn mạo hiểm", nhà phân tích trưởng Jan von Gerich của Nordea nói với Reuters.

Điều này xảy ra bất chấp việc Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu Christine Lagarde trấn an các nhà lãnh đạo EU rằng các ngân hàng thuộc khu vực đồng euro có khả năng phục hồi nhờ vị thế thanh khoản mạnh, nguồn vốn dồi dào và các cải cách sau năm 2008. Bà cũng cho biết bộ công cụ của ECB sẵn sàng cung cấp thanh khoản cho hệ thống tài chính nếu có nhu cầu.

Số phận khách hàng gửi tiền tại SVB không được bảo hiểm Số phận khách hàng gửi tiền tại SVB không được bảo hiểm
SVB sụp đổ là tin xấu cho năng lượng mặt trời quy mô nhỏ SVB sụp đổ là tin xấu cho năng lượng mặt trời quy mô nhỏ

Bình An

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,700 119,700
AVPL/SJC HCM 117,700 119,700
AVPL/SJC ĐN 117,700 119,700
Nguyên liệu 9999 - HN 10,810 11,150
Nguyên liệu 999 - HN 10,800 11,140
Cập nhật: 28/06/2025 08:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.700 116.500
TPHCM - SJC 117.700 119.700
Hà Nội - PNJ 113.700 116.500
Hà Nội - SJC 117.700 119.700
Đà Nẵng - PNJ 113.700 116.500
Đà Nẵng - SJC 117.700 119.700
Miền Tây - PNJ 113.700 116.500
Miền Tây - SJC 117.700 119.700
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.700 116.500
Giá vàng nữ trang - SJC 117.700 119.700
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.700
Giá vàng nữ trang - SJC 117.700 119.700
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.700
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.700 116.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.700 116.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.890 115.390
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.180 114.680
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.950 114.450
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.280 86.780
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.220 67.720
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.700 48.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.400 105.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.110 70.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.730 75.230
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.190 78.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.960 43.460
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.770 38.270
Cập nhật: 28/06/2025 08:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,170 11,620
Trang sức 99.9 11,160 11,610
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,850
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,380 11,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,380 11,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,380 11,680
Miếng SJC Thái Bình 11,770 11,970
Miếng SJC Nghệ An 11,770 11,970
Miếng SJC Hà Nội 11,770 11,970
Cập nhật: 28/06/2025 08:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16536 16805 17383
CAD 18574 18851 19474
CHF 32034 32416 33073
CNY 0 3570 3690
EUR 29918 30190 31224
GBP 35045 35439 36383
HKD 0 3193 3396
JPY 173 178 184
KRW 0 18 20
NZD 0 15515 16106
SGD 19916 20198 20726
THB 716 779 833
USD (1,2) 25828 0 0
USD (5,10,20) 25868 0 0
USD (50,100) 25896 25930 26275
Cập nhật: 28/06/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,910 25,910 26,270
USD(1-2-5) 24,874 - -
USD(10-20) 24,874 - -
GBP 35,385 35,481 36,372
HKD 3,265 3,274 3,374
CHF 32,207 32,307 33,117
JPY 177.47 177.79 185.33
THB 763.79 773.22 827
AUD 16,814 16,875 17,346
CAD 18,819 18,879 19,433
SGD 20,081 20,144 20,819
SEK - 2,695 2,788
LAK - 0.92 1.28
DKK - 4,022 4,161
NOK - 2,541 2,632
CNY - 3,590 3,688
RUB - - -
NZD 15,482 15,625 16,084
KRW 17.77 18.53 20
EUR 30,094 30,119 31,342
TWD 816.87 - 988.28
MYR 5,766.06 - 6,505.79
SAR - 6,839.83 7,198.96
KWD - 83,097 88,350
XAU - - -
Cập nhật: 28/06/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,925 25,925 26,265
EUR 29,940 30,060 31,184
GBP 35,235 35,377 36,374
HKD 3,259 3,272 3,377
CHF 32,000 32,129 33,067
JPY 176.72 177.43 184.81
AUD 16,784 16,851 17,387
SGD 20,131 20,212 20,765
THB 781 784 819
CAD 18,798 18,873 19,403
NZD 15,596 16,106
KRW 18.41 20.29
Cập nhật: 28/06/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25910 25910 26270
AUD 16715 16815 17381
CAD 18759 18859 19415
CHF 32282 32312 33202
CNY 0 3604 0
CZK 0 1170 0
DKK 0 4060 0
EUR 30209 30309 31084
GBP 35361 35411 36521
HKD 0 3330 0
JPY 177.05 178.05 184.62
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6335 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 15626 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2730 0
SGD 20076 20206 20936
THB 0 745.1 0
TWD 0 880 0
XAU 11500000 11500000 12000000
XBJ 10500000 10500000 12000000
Cập nhật: 28/06/2025 08:00