Giá vàng hôm nay 6/3/2022: Ghi nhận tuần tăng mạnh, sẵn sàng thử thách mức 2.000 USD

00:30 | 06/03/2022

3,380 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Giá vàng hôm nay ghi nhận 100% chuyên gia nhận định giá vàng tuần tới sẽ tiếp tục đi lên bởi lo ngại cuộc xung đột Nga – Ukraine kéo dài sẽ khiến các yếu tố rủi ro đối với kinh tế toàn cầu ngày một lớn.

Giá vàng thế giới bước vào tuần giao dịch từ ngày 28/2 với xu hướng tăng mạnh khi tình hình căng thẳng ở Ukraine có dấu hiệu leo thang khi Nga vẫn đang mở rộng quy mô và tấn công vào nhiều khu vực trên lãnh thổ Ukraine. Phản ứng trước diễn biến này, Mỹ và các nước đồng minh đã tuyên bố nhiều biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Nga, đồng thời đã thực hiện việc chi viện y tế, tài chính và đặc biệt là vũ khí để Ukraine có thể chống trả lại các cuộc tấn công từ phía Nga.

Nỗi ám ảnh tâm lý về một cuộc xung đột leo thang, kéo dài đang tác động mạnh đến tâm lý lo ngại rủi ro của nhà đầu tư, thúc đẩy dòng tiền tìm đến các tài sản đảm bảo, trong đó có vàng, qua đó hỗ trợ giá vàng bật tăng mạnh.

Giá vàng hôm nay 6/3/2022: Ghi nhận tuần tăng mạnh, sẵn sàng thử thách mức 2.000 USD
Ảnh minh hoạ

Động lực tăng giá của kim loại quý còn đến từ sự lo ngại lạm phát toàn cầu sẽ bùng nổ khi các biện pháp trừng phạt của Mỹ và các nước đồng minh đối với Nga có thể đẩy giá năng lượng tăng công, trong khi các chuỗi cung ứng hàng hoá toàn cầu vốn đang phục hồi có thể bị gián đoạn, đứt gãy trở lại.

Ghi nhận vào đầu giờ sáng ngày 28/2/2022, theo giờ Việt Nam, giá vàng giao ngay đứng ở mức 1.910,64 USD/Ounce, trong khi giá vàng thế giới giao tháng 3/2022 ghi nhận trên sàn Comex thuộc New York Mercantile Exchanghe ở mức 1.914,1 USD/Ounce.

Động lực tăng giá cảu kim loại quý tiếp tục gia tăng khi không chỉ chính phủ các nước, nhiều tổ chức tài chính vốn có quan hệ kinh tế với Nga cũng tuyên bố cắt đứt, rút bỏ khỏi các tập đoàn, công ty lớn của nước này, đặc biệt là trong lĩnh vực năng lượng.

Sự gia tăng căng thẳng giữa Nga với Mỹ và các nước phương Tây dường như chưa có dấu hiệu dừng lại khi trong diễn biến mới nhất, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã ký ban hành sắc lệnh về việc sử dụng các biện pháp kinh tế đặc biệt để đối phó các lệnh trừng phạt Mỹ và các đồng minh.

Thông tin về việc Nga và Ukraine đồng ý ngồi vào bàn đàm phán không đủ giúp cải thiện tâm lý nhà đầu tư khi 2 bên đều bày tỏ quan điểm cứng rắn trên bàn đàm phán, trong khi đó các cuộc tấn công của Nga vẫn được tổ chức trên đất Ukraine.

Đồng USD mạnh hơn nhờ kỳ vọng Fed sẽ bắt đầu thực hiện lộ trình tăng lãi suất sau cuộc họp diễn ra trong 2 ngày 15-16/3 cũng không đủ mạnh để kiềm chế đà tăng của kim loại quý khi mà giá dầu, giá khí đốt liên tục tăng cao, tạo áp lực lớn lên lạm phát và đặt kinh tế toàn cầu trước những thách thức, rủi ro lớn.

Thông điệp Liên bang 2022 của Mỹ cho thấy bức tranh kinh tế Mỹ đã có nhiều khởi sắc trong năm 2021 và đặt nhiều mục tiêu cho năm 2022. Tuy nhiên, ở chiều hướng khác nó cũng đang cho thấy áp lực mà nền kinh tế nước này đang phải chịu rất lớn. Đó là việc Mỹ sẽ phải xả 30 triệu thùng dầu từ kho dự trữ chiến lược nhằm hạ nhiệt giá dầu. Là việc các chuỗi cung hàng hoá của nước này đang phụ thuộc vào nước ngoài…

Nhưng không chỉ ở Mỹ, lo ngại tình trạng thiếu hụt các nguồn cung hàng hoá, không chỉ ở lĩnh vực năng lượng mà ở cả các lĩnh vực khác như nông nghiệp, sản xuất ô tô…, qua đó đẩy giá cả hàng hoá tăng cao và lạm phát gia tăng cũng liên tục được cảnh báo tại nhiều quốc gia.

Với việc nhiều hãng vận tài biển từ chối điều tàu đến Nga và dầu thô Nga bị “ghẻ lạnh”, ế ẩm trên thị trường, giá dầu thô đang tăng mạnh, treo ở mức cao nhất kể từ năm 2014, khi các nhà giao dịch nghi ngại về khả năng thực thi các hợp đồng mua dầu trong bối cảnh các lệnh trừng phạt đã được áp đặt với Nga. Điều này đang đặt các mục tiêu tăng trưởng, phục hồi kinh tế của nhiều nước trước những thách thức, rủi ro lớn.

Nhiều tập đoàn năng lượng quốc tế cũng đã thông báo về việc chấm dứt các mối liên hệ với các liên doanh, dự án năng lượng ở Nga.

Nhưng không chỉ dầu thô, giá khí đốt ở châu Âu cũng đang tăng mạnh và đã chạm mức kỷ lục được ghi nhận vào tháng 12/2021 khi cuộc xung đột Nga – Ukraine nổ ra. Đức đã tuyên bố ngừng xem xét việc cấp phép cho tuyến đường ống khí đốt Dòng chảy phương Bắc 2 (Nord Stream 2), trong khi Mỹ cũng thông báo về lệnh trừng phạt đối với công ty điều hành đường ống nay và khiến nó lâm cảnh phá sản.

Và khi những thông tin liên quan đến vụ nổ nhà máy điện hạt nhân lớn nhất châu Âu ở Zaporizhzhia và thái độ cứng rắn của cả Nga và Ukraine trong quá trình đàm phán, giá vàng đã có phiên giao dịch cuối tuần tăng phi mã.

Đà tăng của kim loại quý còn được thúc đẩy mạnh bởi làn sóng dịch chuyển dòng vốn từ thị trường chứng khoán sang các tài sản đảm bảo trong bối cảnh cuộc xung đột Nga – Ukraine qua 2 vòng đàm phán vẫn chưa tìm được con được giải quyết.

Theo ghi nhận, kết thúc phiên giao dịch ngày 4/3, tại châu Á, chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản giảm 2,23% và Topix giảm 1,96%; Kospi của Hàn Quốc giảm 1,22%; S&P/AXS của Australia giảm 0,57%. Tại Trung Quốc, chỉ số SSE Composite của Thượng Hải giảm 0,96%, SZSE Composite của Thâm Quyến giảm 1,37% và Hang Seng của Hong Kong giảm 2,5%.

Chứng khoán châu Âu cũng chịu thiệt hại nặng khi chỉ số FTSE 100 của Anh giảm 2,74%; CAC 40 của Pháp giảm 4,24%; DAX của Đức giảm 3,87%; Stoxx 600 giảm 3%.

Chốt tuần giao dịch, giá vàng hôm nay ghi nhận giá vàng giao ngay đứng ở mức 1.970,41 USD/Ounce, trong khi giá vàng thế giới giao tháng 4/2022 ghi nhận trên sàn Comex thuộc New York Mercantile Exchanghe ở mức 1.969,5 USD/Ounce.

Tại thị trường trong nước, theo diễn biến của giá vàng thế giới, giá vàng SJC trong nước cũng ghi nhận tuần tăng mạnh, khép tuần ở mức 69,3 triệu đồng/lượng.

Cụ thể, khép tuần giao dịch, giá vàng ngày 6/3 ghi nhận giá vàng SJC được niêm yết tại TP Hồ Chí Minh ở mức 68,00 – 69,30 triệu đồng/lượng (mua vào/bán ra). Tại DOJI, giá vàng niêm yết tại Hà Nội ở mức 67,75 – 69,30 triệu đồng/lượng. Còn tại Phú Quý SJC, giá vàng 9999 được niêm yết tại Hà Nội ở mức 68,00 – 69,30 triệu đồng/lượng.

Với những diễn biến trong tuần giao dịch từ ngày 28/2, đặc biệt trong phiên giao dịch cuối tuần, giá vàng tuần tới được dự báo sẽ tiếp tục duy trì đà tăng và sẽ sớm chinh phục mức 2.000 USD/Ounce.

Theo kết quả khảo sát xu hướng giá vàng hàng tuần của Kitco, trong 14 nhà phân tích Phó Wall tham gia khảo sát thì cả 14 nhà phân tích cho rằng giá vàng tăng. Còn với 1.013 phiếu tham gia thăm dò trực tuyến trên Main Street thì có tới 714 phiếu, chiếm 70%, cho rằng giá vàng tăng; 116 phiếu, chiếm 16%, cho rằng giá vàng giảm và 113 phiếu, chiếm 13%, cho rằng giá vàng đi ngang.

Nhận định về xu hướng giá vàng, Adrian Day, chủ tịch của Adrian Day Asset Management, cho rằng: Chừng nào cuộc chiến ở Ukraine còn tiếp tục, thì vàng sẽ còn mạnh. Chiến sự làm lu mờ các vấn đề tiền tệ ngay bây giờ.

Thậm chí theo Darin Newsom, chủ tịch của Darin Newsom Analysis, bất chấp những tín hiệu tích cực từ nền kinh tế Mỹ với việc tạo ra 678.000 việc làm trong tháng 2 và tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 3,9%, giá vàng vẫn sẽ tăng lên.

Đưa dự báo cụ thể về giá vàng, Sean Lusk, giám đốc bảo hiểm rủi ro thương mại của Walsh Trading, dự báo giá vàng sẽ tăng 10% so với đóng cửa năm 2021, cán mức mục tiêu ban đầu là 2.010 USD/Ounce trong thời gian tới.

Tuy nhiên, giới chuyên gia cũng cho rằng, giá vàng tuần tới cũng phải đối diện với không ít rủi ro bởi đồng USD mạnh hơn và đặc biệt là những tín hiệu tích cực từ cuộc xung đột Nga - Ukraine khi Nga tuyên bố tạm ngừng bắn một phần nhằm tạo điều kiện mở các hành lang nhân đạo cho dân thường rời khỏi các thành phố Mariupol và Volnovakha của Ukraine.

Trong diễn biến khác, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken cho biết, Mỹ sẵn sàng tham gia nỗ lực ngoại giao có ý nghĩa với Nga, trong bối cảnh xung đột giữa Nga và Ukraine đang leo thang. Đây cũng được xem là tín hiệu tích cực mới nhằm tìm ra lối thoát cho cuộc xung đột Nga - Ukraine, qua đó mở ra cơ hội chấm dứt các nguy cơ, rủi ro đối với kinh tế toàn cầu.

Minh Ngọc

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC HCM 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC ĐN 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 ▲600K 76,100 ▲500K
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 ▲600K 76,000 ▲500K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.000 ▼100K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,465 ▲30K 7,680 ▲30K
Trang sức 99.9 7,455 ▲30K 7,670 ▲30K
NL 99.99 7,460 ▲30K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,440 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,530 ▲30K 7,710 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,530 ▲30K 7,710 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,530 ▲30K 7,710 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▼10K 8,380 ▼20K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▼10K 8,380 ▼20K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▼10K 8,380 ▼20K
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,800 ▼300K 83,800 ▼300K
SJC 5c 81,800 ▼300K 83,820 ▼300K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,800 ▼300K 83,830 ▼300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 ▲100K 76,700 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 ▲100K 76,800 ▲100K
Nữ Trang 99.99% 74,700 ▲100K 76,000 ▲100K
Nữ Trang 99% 73,248 ▲99K 75,248 ▲99K
Nữ Trang 68% 49,335 ▲68K 51,835 ▲68K
Nữ Trang 41.7% 29,345 ▲42K 31,845 ▲42K
Cập nhật: 19/04/2024 14:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,037 16,137 16,587
CAD 18,212 18,312 18,862
CHF 27,540 27,645 28,445
CNY - 3,475 3,585
DKK - 3,578 3,708
EUR #26,603 26,638 27,898
GBP 31,205 31,255 32,215
HKD 3,175 3,190 3,325
JPY 161.52 161.52 169.47
KRW 16.63 17.43 20.23
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,261 2,341
NZD 14,713 14,763 15,280
SEK - 2,266 2,376
SGD 18,221 18,321 19,051
THB 637.06 681.4 705.06
USD #25,183 25,183 25,473
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16070 16120 16525
CAD 18252 18302 18707
CHF 27792 27842 28255
CNY 0 3478.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26795 26845 27351
GBP 31362 31412 31872
HKD 0 3140 0
JPY 162.88 163.38 167.92
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14751 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18509 18509 18866
THB 0 649.6 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 14:00