Giá dầu và tăng trưởng toàn cầu

07:03 | 27/12/2015

514 lượt xem
|
Giá dầu sụt giảm sâu và liên tục trong thời gian qua đã không mang lại sự kích thích đáng kể nào cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu, trái với kỳ vọng của nhiều nhà phân tích từ đầu năm 2015. Vì sao vậy? Nhà kinh tế học Kenneth Rogoff - Giáo sư Khoa Kinh tế và Chính sách công của Trường đại học Harvard (Mỹ) đã lý giải điều này qua bài phân tích “Giá dầu và tăng trưởng toàn cầu” đăng trên trang Project Syndicate mới đây.

Một trong những bất ngờ lớn nhất của nền kinh tế năm 2015 chính là việc sự sụt giảm choáng váng của giá dầu thế giới đã không giúp nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng mạnh mẽ. Mặc cho giá dầu giảm mạnh từ 115 USD/thùng ở thời điểm tháng 6/2014 xuống còn 45 USD/thùng vào tháng 11/2015, hầu hết các mô hình vĩ mô đều cho thấy, tác động của giá dầu làm giảm tăng trưởng toàn cầu thực sự kém hiệu quả hơn so với mong đợi, có lẽ chỉ khoảng 0,5% GDP toàn cầu.

Tin tốt là tác động tích cực nhưng khiêm tốn này có khả năng không biến mất vào năm 2016. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là giá dầu giảm sẽ tạo áp lực nặng nề hơn cho những quốc gia xuất khẩu dầu chính trên thế giới.

gia dau va tang truong toan cau

Sự sụt giảm gần đây của giá dầu tương đương với sự sụt giá do nguồn cung dầu thô tăng trong giai đoạn 1985-1986, khi các nước thành viên Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), cụ thể là Arập Xêút, đã quyết định đảo ngược việc giảm nguồn cung nhằm giành lại thị phần. Nó cũng có thể so sánh với sự sụt giá do nhu cầu năng lượng giảm trong năm 2008-2009, sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh nhân tố cầu khiến giá dầu giảm, người ta sẽ không mong đợi một tác động tích cực lớn; giá dầu là một chất ổn định tự động hơn là một lực lượng ngoại sinh dẫn dắt nền kinh tế toàn cầu. Mặt khác, những cú sốc nguồn cung lại có một tác động tích cực đáng kể.

Mặc dù cú sốc giá dầu 2014-2015 không đơn giản như 2 lần sụt giá trước đó, nhưng nguyên nhân thực sự của đợt sụt giảm lần này có vẻ như được phân chia đồng đều giữa các nhân tố cung - cầu. Chắc chắn, sự giảm tốc của nền kinh tế Trung Quốc nhằm tái cân bằng nền kinh tế theo hướng dựa vào tiêu dùng trong nước đã giáng một đòn mạnh lên giá nguyên liệu thô toàn cầu. Điều này có thể nhận thấy rõ không chỉ với giá dầu mà còn với giá kim loại - tất cả đều giảm mạnh. Đơn cử như giá vàng cuối tháng 11 là 1.050 USD/ounce, tụt trông thấy so với mốc giá đỉnh 1.890 USD/ounce hồi tháng 9/2011.

Nguồn cung mới

Cùng lúc đó, những nguồn cung dầu thô mới cũng trở nên dồi dào hơn. Nhờ vào cuộc cách mạng dầu đá phiến, sản lượng dầu của Mỹ đã tăng từ 5 triệu thùng/ngày ở thời điểm năm 2008 lên 9,3 triệu thùng/ngày vào năm 2015 - một sự bùng nổ nguồn cung bền bỉ bất chấp sự bất ổn của giá cả. Bên cạnh đó, dự đoán về sản lượng dầu của Iran sau giai đoạn bị trừng phạt kinh tế cũng đã ảnh hưởng đến thị trường.

Sự sụt giảm của giá dầu ở một mức độ nào đó có thể được nhìn nhận như một trò chơi có tổng bằng 0, một cuộc chơi mà trong đó nhà sản xuất chịu thiệt hại còn người tiêu dùng thì hưởng lợi. Các lý thuyết thông thường cho rằng khi giá càng giảm thì càng kích thích tiêu dùng toàn cầu. Bởi khi đó, người tiêu dùng có khả năng chi tiêu nhiều hơn dự kiến, trong khi nhà sản xuất điều chỉnh theo hướng giảm dự trữ.

Tuy nhiên, trong năm 2015, sự khác biệt về hành vi này lại ít rõ rệt hơn so với bình thường. Một lý do được đưa ra là những nhà nhập khẩu nhiên liệu từ các thị trường mới nổi có ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn cầu nhiều hơn so với thời điểm những năm 1980. Và vì cách tiếp cận thị trường dầu mỏ của họ cũng mang tính can thiệp (bởi nhà nước) nhiều hơn các nước phát triển.

Những nước như Ấn Độ hay Trung Quốc ổn định thị trường bán lẻ năng lượng thông qua các khoản trợ giá nhằm cắt giảm giá thành cho người tiêu dùng trong nước. Số tiền đổ vào những gói trợ giá này dường như càng tăng thêm khi giá dầu tăng đột biến và ngày càng nhiều quốc gia thấy khó khăn trong việc giảm trợ cấp. Vì vậy khi giá dầu giảm mạnh, chính phủ của các thị trường mới nổi đã tận dụng cơ hội này để giảm trợ giá.

Giảm đầu tư

Đồng thời, nhiều quốc gia xuất khẩu dầu mỏ bị buộc phải giảm kế hoạch chi tiêu do nguồn thu nhập bị giảm đột ngột. Ngay cả Arập Xêút dù có nguồn dự trữ dầu thô và tài chính khổng lồ, cũng đã đến lúc bị căng thẳng do thu giảm, chi tăng - nguyên nhân bắt nguồn từ sự gia tăng dân số chóng mặt và chi tiêu quốc phòng tăng cao liên quan đến các cuộc xung đột ở Trung Đông.

Tuy nhiên, có lẽ không nên nhận định tác động khiêm tốn của giá dầu giảm lên tăng trưởng toàn cầu là bất ngờ hoàn toàn. Ngày nay, dầu thô ngày càng ít được coi là một động lực độc lập của các chu kỳ kinh tế hơn so với những gì người ta từng nghĩ trước đây. Sự suy giảm đáng kể các hoạt động đầu tư vào lĩnh vực năng lượng cũng làm kìm hãm tăng trưởng. Sau nhiều năm tăng trưởng nhanh chóng, đầu tư toàn cầu trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu đã giảm 150 tỉ USD vào năm 2015. Điều này cũng sẽ tác động đến giá cả, nhưng phải từ từ và dần dần: Giá dầu trên các thị trường giao sau (futures market) đã tăng lên tới 60 USD/thùng vào năm 2020.

Một tin vui cho năm 2016 là hầu hết các mô hình kinh tế vĩ mô cho rằng ảnh hưởng của giá dầu lên tăng trưởng sẽ còn kéo dài trong vòng vài năm nữa. Vì vậy, điều này cũng sẽ có lợi cho tăng tưởng toàn cầu, ngay cả trong trường hợp các nhà nhập khẩu của những thị trường mới nổi sẽ tiếp tục dùng số tiền tiết kiệm được nhằm giảm trợ giá.

Tuy nhiên, còn nhiều quốc gia sản xuất dầu đang đứng bên bờ vực suy thoái kinh tế. Các quốc gia có tỷ giá hối đoái thả nổi (như Colombia, Mexico và Nga) tới nay đã dần thích nghi được, mặc dù họ đã phải đối mặt với những giới hạn ngân sách khá căng thẳng. Ngược lại, những nước có chế độ tỷ giá hối đoái gần như cố định bị thử thách nhiều hơn. Đơn cử như Arập Xêút - nước vốn có đồng tiền được neo với đồng USD, đã phải chịu áp lực rất lớn trong những tuần gần đây.

Tóm lại, giá dầu không hề ảnh hưởng nhiều tới tăng trưởng toàn cầu trong năm 2015 như những gì chúng ta kỳ vọng từ đầu năm. Và nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào kèm theo các chính sách vĩ mô tương đối bảo thủ đã cho phép hầu hết các nhà khai thác dầu lớn lèo lái vượt qua các căng thẳng tài chính cho tới lúc này mà không bị rơi vào khủng hoảng. Tình hình có thể sẽ tiến triển theo chiều hướng khác vào năm 2016, đặc biệt đối với các nước khai thác dầu lớn.

Linh Phương

Năng lượng Mới 486

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 73,200 ▲900K 74,600 ▲1100K
AVPL/SJC HCM 73,200 ▲800K 74,400 ▲1000K
AVPL/SJC ĐN 73,200 ▲600K 74,600 ▲1000K
Nguyên liệu 9999 - HN 61,550 ▲920K 61,900 ▲750K
Nguyên liệu 999 - HN 61,400 ▲820K 61,750 ▲750K
AVPL/SJC Cần Thơ 73,200 ▲900K 74,600 ▲1100K
Cập nhật: 29/11/2023 11:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 61.200 ▲600K 62.400 ▲600K
TPHCM - SJC 73.200 ▲600K 74.500 ▲900K
Hà Nội - PNJ 61.200 ▲600K 62.400 ▲600K
Hà Nội - SJC 73.300 ▲700K 74.500 ▲900K
Đà Nẵng - PNJ 61.200 ▲600K 62.400 ▲600K
Đà Nẵng - SJC 73.200 ▲600K 74.500 ▲900K
Miền Tây - PNJ 61.200 ▲600K 62.400 ▲600K
Miền Tây - SJC 73.000 ▲800K 74.400 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Nhẫn PNJ (24K) 61.200 ▲600K 62.350 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 61.150 ▲650K 61.950 ▲650K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 45.210 ▲480K 46.610 ▲480K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 34.990 ▲380K 36.390 ▲380K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 24.520 ▲270K 25.920 ▲270K
Cập nhật: 29/11/2023 11:00
AJC Mua vào Bán ra
TT, 3A, NT Nghệ An 6,180 ▲60K 6,280 ▲60K
Trang sức 99.99 6,125 ▲65K 6,260 ▲65K
Trang sức 99.9 6,115 ▲65K 6,250 ▲65K
SJC Thái Bình 7,320 ▲60K 7,440 ▲90K
NT, ĐV, 3A Hà Nội 6,180 ▲65K 6,280 ▲65K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,180 ▲65K 6,280 ▲65K
NL 99.99 6,140 ▲65K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,140 ▲65K
Miếng SJC Nghệ An 7,320 ▲60K 7,440 ▲90K
Miếng SJC Hà Nội 7,320 ▲60K 7,440 ▲90K
Cập nhật: 29/11/2023 11:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 73,200 ▲700K 74,400 ▲900K
SJC 5c 73,200 ▲700K 74,420 ▲900K
SJC 2c, 1C, 5 phân 73,200 ▲700K 74,430 ▲900K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 61,300 ▲600K 62,400 ▲600K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 61,300 ▲600K 62,500 ▲600K
Nữ Trang 99.99% 61,200 ▲600K 62,100 ▲600K
Nữ Trang 99% 60,285 ▲594K 61,485 ▲594K
Nữ Trang 68% 40,382 ▲408K 42,382 ▲408K
Nữ Trang 41.7% 24,048 ▲250K 26,048 ▲250K
Cập nhật: 29/11/2023 11:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,687.19 15,845.65 16,355.27
CAD 17,410.63 17,586.49 18,152.10
CHF 26,913.65 27,185.51 28,059.83
CNY 3,327.98 3,361.59 3,470.23
DKK - 3,507.50 3,642.10
EUR 25,948.83 26,210.94 27,373.77
GBP 29,983.22 30,286.08 31,260.12
HKD 3,024.77 3,055.32 3,153.59
INR - 289.72 301.32
JPY 160.13 161.75 169.51
KRW 16.24 18.05 19.69
KWD - 78,349.79 81,488.46
MYR - 5,156.28 5,269.15
NOK - 2,238.47 2,333.69
RUB - 259.13 286.88
SAR - 6,434.10 6,691.85
SEK - 2,304.50 2,402.52
SGD 17,748.67 17,927.95 18,504.54
THB 617.13 685.69 712.01
USD 24,000.00 24,030.00 24,370.00
Cập nhật: 29/11/2023 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,847 15,947 16,397
CAD 17,616 17,716 18,266
CHF 27,147 27,252 28,052
CNY - 3,356 3,466
DKK - 3,522 3,652
EUR #26,224 26,249 27,359
GBP 30,381 30,431 31,391
HKD 3,029 3,044 3,179
JPY 161.16 161.16 169.11
KRW 16.98 17.78 20.58
LAK - 0.87 1.23
NOK - 2,241 2,321
NZD 14,719 14,769 15,286
SEK - 2,300 2,410
SGD 17,745 17,845 18,445
THB 644.08 688.42 712.08
USD #23,953 24,033 24,373
Cập nhật: 29/11/2023 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 24,040 24,040 24,340
USD(1-2-5) 23,821 - -
USD(10-20) 23,821 - -
GBP 30,111 30,293 31,240
HKD 3,037 3,059 3,147
CHF 27,011 27,174 28,026
JPY 160.81 161.78 169.27
THB 667.25 673.99 719.83
AUD 15,785 15,880 16,325
CAD 17,489 17,594 18,130
SGD 17,832 17,939 18,441
SEK - 2,312 2,390
LAK - 0.9 1.23
DKK - 3,515 3,630
NOK - 2,246 2,321
CNY - 3,361 3,452
RUB - 246 316
NZD 14,703 14,792 15,202
KRW 16.48 18.21 19.54
EUR 26,134 26,205 27,343
TWD 699 - 844.37
MYR 4,872.66 - 5,486.45
SAR - 6,345.84 6,669.71
Cập nhật: 29/11/2023 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,010.00 24,030.00 24,350.00
EUR 26,177.00 26,282.00 26,972.00
GBP 30,192.00 30,374.00 31,168.00
HKD 3,041.00 3,053.00 3,154.00
CHF 27,116.00 27,225.00 27,968.00
JPY 161.87 162.52 166.84
AUD 15,803.00 15,866.00 16,333.00
SGD 17,923.00 17,995.00 18,400.00
THB 678.00 681.00 714.00
CAD 17,592.00 17,663.00 18,057.00
NZD 14,733.00 15,221.00
KRW 17.96 19.67
Cập nhật: 29/11/2023 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 23995 24045 24350
AUD 15895 15945 16350
CAD 17660 17710 18116
CHF 27388 27438 27860
CNY 0 3360 0
CZK 0 980 0
DKK 0 3406 0
EUR 26369 26419 27035
GBP 30566 30616 31075
HKD 0 3000 0
JPY 162.04 162.54 168.58
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.2 0
LAK 0 1.0174 0
MYR 0 5100 0
NOK 0 2190 0
NZD 0 14765 0
PHP 0 324 0
SEK 0 2140 0
SGD 17986 18036 18451
THB 0 656.9 0
TWD 0 708 0
XAU 7320000 7320000 7430000
XBJ 5500000 5500000 5700000
Cập nhật: 29/11/2023 11:00