Duy trì tăng trưởng ở mức cao, thị trường bán lẻ có triển vọng tươi sáng

17:01 | 01/11/2019

489 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Nhờ tăng trưởng kinh tế mà tiêu dùng nội địa đang tăng mạnh mẽ và duy trì ở mức cao khoảng 10%/năm. Với tốc độ tăng trưởng hơn cả tăng trưởng GDP cả nước này, thị trường bán lẻ dự báo có chiều hướng tươi sáng thời gian tới.
duy tri tang truong o muc cao thi truong ban le co chieu huong tuoi sangThời cơ “vàng” cho bán lẻ
duy tri tang truong o muc cao thi truong ban le co chieu huong tuoi sang“Phá vỡ các giới hạn trải nghiệm” - xu hướng mới của thị trường bán lẻ
duy tri tang truong o muc cao thi truong ban le co chieu huong tuoi sangDự báo bán bia, cà phê vỉa hè đạt hơn 3 tỷ USD năm 2019

Việt Nam là một trong những thị trường tiêu dùng lớn nhất châu Á hiện nay với sự gia tăng nhanh về quy mô song cũng gia tăng về diễn biến phức tạp của thị trường cũng như chất lượng của các nhà cung cấp trên thị trường bán lẻ do sự cạnh tranh gay gắt và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Hiện tại Việt Nam có 8 phân khúc trong thị trường bán lẻ là đại siêu thị/trung tâm phân phối, trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm phức hợp, siêu thị, siêu thị mini/cửa hàng tiện lợi/cửa hàng chuyên dụng, siêu thị điện máy, bán lẻ trực tuyến và bán hàng qua truyền hình.

duy tri tang truong o muc cao thi truong ban le co chieu huong tuoi sang
Việt Nam là một trong những thị trường tiêu dùng lớn nhất châu Á

Theo đánh giá của các chuyên gia, với các phân khúc này, ngành bán lẻ đang là lĩnh vực đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài cả về đầu tư tài chính và đầu tư để kinh doanh bởi có nhiều lợi thế như tốc độ tăng trưởng GDP cao, lạm phát ổn định, quy mô dân số lớn (hơn 93,7 triệu người) và cơ cấu dân số trẻ (60% dân số ở độ tuổi 18-50).

Dự báo trong năm tới chi tiêu hộ gia đình sẽ tăng trung bình khoảng 10,5%/năm và đạt 714 USD/tháng vào năm 2020, trong khi tỷ lệ bao phủ của hệ thống bán lẻ hiện đại thấp hơn nhiều nước trong khu vực. Cụ thể, Việt Nam đạt 25% tổng mức bán lẻ, trong khi ở Philippines là 33%, Thái Lan là 34%, Malaysia 60%, Singapore là 90%...

Theo báo cáo của nhiều "đại gia" bán lẻ, thời gian vừa qua lợi nhuận đạt được rất khả quan. Như Công ty cổ phần Vincom Retail (VRE) vừa công bố báo cáo tài chính quý III/2019 với 2.208 tỷ đồng doanh thu, giảm 25% so với cùng kỳ 2018 do doanh thu chuyển nhượng bất động sản giảm từ 1.500 tỷ đồng xuống 339 tỷ đồng. Trong khi doanh thu cho thuê trung tâm thương mại - vốn có tỷ suất lợi nhuận cao hơn đáng kể - tăng từ 1.400 tỷ lên 1.800 tỷ đồng.

Điều này góp phần giúp lợi nhuận gộp tăng 13%, đạt 1.078 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế tăng 33%, đạt 901 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng đầu năm, VRE đạt 6.475 tỷ đồng doanh thu và 2.467 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng lần lượt 6% và 15% so với cùng kỳ.

duy tri tang truong o muc cao thi truong ban le co chieu huong tuoi sang
Thị trường bán lẻ Việt Nam hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài

VRE cho biết, doanh thu quý III/2019 chủ yếu đến từ hoạt động cho thuê bất động sản đầu tư và cung cấp các dịch vụ liên quan, chiếm 82% tổng doanh thu và đây cũng là mảng chính của VRE liên quan tới việc cho thuê gian hàng tại các trung tâm thương mại, hoặc cho thuê cả trung tâm thương mại.

Hiện VRE đang sở hữu 66 trung tâm thương mại tại 38 tỉnh, thành phố trên cả nước với tổng mức tài sản đạt gần 37.600 tỷ đồng (tính đến cuối tháng 9/2019).

Báo cáo tài chính quý III/2019 của Công ty cổ phần Thế giới Di động (MWG) cho thấy, 9 tháng đầu năm 2019, doanh thu thuần đạt 76.763 tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ 2018 và lợi nhuận trước thuế đạt 3.873 tỷ đồng, tăng 35%. Lợi nhuận của MWG tăng trưởng cao nhờ doanh thu tài chính tăng mạnh, chủ yếu do tăng lãi tiền gửi ngân hàng và chiết khấu thanh toán.

Hiện MWG đang sở hữu chuỗi 2.621 cửa hàng trải dài khắp cả nước, trong đó 1.000 cửa hàng Thế giới Di động, 886 cửa hàng Điện máy Xanh, 725 cửa hàng Bách hóa Xanh và 10 cửa hàng Điện thoại siêu rẻ.

Tại Công ty cổ phần Bán lẻ kỹ thuật số FPT - FPT Retail (FRT), mảng kinh doanh online đã chạm ngưỡng gần 3.000 tỷ đồng trong 9 tháng qua, tăng gần 60% so với cùng kỳ 2018. Trong tháng 9/2019, FRT trích lập dự phòng cho khoản nợ xấu của 2 chương trình F-Friends và Subsidy, nên lợi nhuận trước thuế lũy kế tăng nhẹ 3%, đạt 292 tỷ đồng.

Tổng doanh thu luỹ kế 9 tháng đạt 12.427 tỷ đồng, tăng 12,7%. Trong đó, doanh thu mảng bán hàng trực tuyến đạt 2.974 tỷ đồng, tăng 59,3% và chiếm tỷ trọng 23,9% trong tổng doanh thu.

Theo lãnh đạo FRT, ở bất cứ mảng kinh doanh nào, sau giai đoạn tăng trưởng thì sẽ đối diện với sự bão hòa, nên các doanh nghiệp phải luôn “làm mới”. Để tạo sự cân bằng, FRT đã mở rộng kinh doanh sang ngành bán lẻ dược phẩm khi nhìn nhận thị trường điện thoại - mảng kinh doanh chính đã bước vào giai đoạn bão hòa.

Để duy trì đà tăng trưởng, FTR Shop đang có những hướng đi mới như phát triển dư địa mảng trả góp, chẳng hạn thay vì để khách hàng tự tìm đến, công ty sẽ chủ động đi tìm khách hàng... Bên cạnh đó, phát triển chuỗi nhà thuốc cũng là chiến lược giúp FTR tăng trưởng trong tương lai.

Tính đến cuối tháng 10/2019, tổng số lượng cửa hàng FPT Shop là 584 cửa hàng và số lượng nhà thuốc Long Châu là 50 nhà thuốc. FTR đã hoàn tất việc ký hợp đồng nhà để mở thêm 20 nhà thuốc, tiến tới hoàn thành kế hoạch tăng số lượng nhà thuốc Long Châu lên con số 70 trong năm nay.

Cũng như nhiều doanh nghiệp bán lẻ khác, Công ty cổ phần Vàng bạc đá quý Phú Nhuận (PNJ) vừa công bố kết quả kinh doanh hợp nhất quý III/2019 với doanh thu và lợi nhuận đều tăng trưởng.

Cụ thể, trong quý III, doanh thu thuần đạt 3.934 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế đạt 268 tỷ đồng, tăng tương ứng 25% và 21% so với cùng kỳ 2018.

Lũy kế 9 tháng đầu năm, PNJ đạt doanh thu thuần 11,679 tỷ đồng, tăng 11%; lợi nhuận trước thuế 1021 tỷ đồng, tăng 17%; hoàn thành lần lượt 64% kế hoạch doanh thu vàn 69% kế hoạch lợi nhuận cả năm.

Theo PNJ, sức mua các mặt hàng trang sức của thị trường đã dần hồi phục từ tháng 8/2019, trong khi hệ thống ERP sau 6 tháng triển khai đã dần vận hành ổn định. Theo đó, PNJ kỳ vọng lợi nhuận quý IV/2019 sẽ tiếp tục duy trì đà tăng trưởng cao khi những tháng cuối năm là thời điểm “vàng” để mua sắm vàng bạc, nữ trang...

Nguyễn Anh

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,800 ▼200K 84,000
AVPL/SJC HCM 81,800 ▼200K 84,000
AVPL/SJC ĐN 81,800 ▼200K 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 73,250 ▼200K 74,200 ▼200K
Nguyên liệu 999 - HN 73,150 ▼200K 74,100 ▼200K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,800 ▼200K 84,000
Cập nhật: 25/04/2024 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.000 ▼500K 84.300 ▼200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 25/04/2024 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,305 ▼15K 7,510 ▼15K
Trang sức 99.9 7,295 ▼15K 7,500 ▼15K
NL 99.99 7,300 ▼15K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,280 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
Miếng SJC Thái Bình 8,230 ▼10K 8,430 ▼10K
Miếng SJC Nghệ An 8,230 ▼10K 8,430 ▼10K
Miếng SJC Hà Nội 8,230 ▼10K 8,430 ▼10K
Cập nhật: 25/04/2024 23:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▼500K 84,300 ▼200K
SJC 5c 82,000 ▼500K 84,320 ▼200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▼500K 84,330 ▼200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,800 ▼100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 74,900 ▼100K
Nữ Trang 99.99% 72,900 74,000 ▼100K
Nữ Trang 99% 71,267 ▼99K 73,267 ▼99K
Nữ Trang 68% 47,975 ▼68K 50,475 ▼68K
Nữ Trang 41.7% 28,511 ▼42K 31,011 ▼42K
Cập nhật: 25/04/2024 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,132.31 16,295.26 16,818.06
CAD 18,084.86 18,267.53 18,853.61
CHF 27,078.76 27,352.28 28,229.82
CNY 3,428.68 3,463.32 3,574.97
DKK - 3,581.24 3,718.38
EUR 26,509.78 26,777.56 27,963.40
GBP 30,937.15 31,249.64 32,252.22
HKD 3,157.93 3,189.82 3,292.16
INR - 303.56 315.69
JPY 158.10 159.69 167.33
KRW 15.97 17.75 19.36
KWD - 82,247.73 85,536.02
MYR - 5,254.14 5,368.74
NOK - 2,269.41 2,365.76
RUB - 261.89 289.91
SAR - 6,745.43 7,015.11
SEK - 2,290.51 2,387.76
SGD 18,188.62 18,372.35 18,961.78
THB 605.39 672.66 698.42
USD 25,137.00 25,167.00 25,477.00
Cập nhật: 25/04/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,168 16,188 16,788
CAD 18,194 18,204 18,904
CHF 27,238 27,258 28,208
CNY - 3,429 3,569
DKK - 3,553 3,723
EUR #26,310 26,520 27,810
GBP 31,112 31,122 32,292
HKD 3,108 3,118 3,313
JPY 158.8 158.95 168.5
KRW 16.24 16.44 20.24
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,227 2,347
NZD 14,800 14,810 15,390
SEK - 2,250 2,385
SGD 18,074 18,084 18,884
THB 631.68 671.68 699.68
USD #25,070 25,070 25,477
Cập nhật: 25/04/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,155.00 25,475.00
EUR 26,606.00 26,713.00 27,894.00
GBP 30,936.00 31,123.00 32,079.00
HKD 3,170.00 3,183.00 3,285.00
CHF 27,180.00 27,289.00 28,124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16,185.00 16,250.30 16,742.00
SGD 18,268.00 18,341.00 18,877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18,163.00 18,236.00 18,767.00
NZD 14,805.00 15,299.00
KRW 17.62 19.25
Cập nhật: 25/04/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25155 25155 25477
AUD 16349 16399 16909
CAD 18342 18392 18848
CHF 27509 27559 28112
CNY 0 3463.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26943 26993 27703
GBP 31492 31542 32200
HKD 0 3140 0
JPY 160.89 161.39 165.9
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0381 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14917 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18446 18496 19057
THB 0 644.5 0
TWD 0 779 0
XAU 8250000 8250000 8420000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 25/04/2024 23:00