Đối phó chuỗi cung ứng bị đứt gãy, doanh nghiệp tránh “bỏ trứng vào một giỏ”

14:14 | 16/09/2020

253 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Dịch bệnh Covid-19 đang làm chuỗi giá trị nhiều ngành hàng xuất nhập khẩu bị đứt gãy trong một thời gian khá dài. Đây là thời điểm đòi hỏi các doanh nghiệp phải có cái nhìn rõ ràng hơn về chuỗi cung ứng, cũng như cần đặt ra câu hỏi làm thế nào để xây dựng chiến lược thích ứng dài hạn.

Chuỗi cung ứng bị đứt gãy

Theo Hiệp hội Da - Giày và Túi xách Việt Nam (Lefaso), tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành giày dép Việt Nam trong giai đoạn 2015-2019 là hơn 10%/năm. Dự kiến năm 2020, giày dép xuất khẩu sẽ đạt hơn 20 tỷ USD trong điều kiện bình thường. Tuy nhiên, dịch bệnh Covid-19 khiến xuất khẩu giày dép khó đạt được kết quả như kế hoạch.

0625-quy-trinh-ke-toan-doanh-nghiep-san-xuat
Dịch Covid-19 khiến chuỗi cung ứng toàn cầu của nhiều ngành hàng bị đứt gãy

Vật tư ngành da giày Việt Nam chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc nhưng đã bị giảm 50% trong tháng 2/2020, dẫn đến nhiều nhà máy giày dép ở Việt Nam bị thiếu hụt nguyên liệu sản xuất. Đến tháng 3/2020, nguồn cung nguyên liệu từ Trung Quốc tốt hơn do nhiều nhà máy hoạt động trở lại. Tuy nhiên, sau khi giảm bớt khó khăn về nguyên liệu đầu vào, ngành da giày lại chịu ảnh hưởng từ thị trường tiêu thụ. Giữa tháng 3/2020, dịch bệnh Covid-19 đã lây lan trên diện rộng tại châu Âu, qua Mỹ và gần như đã “đánh sập” những thị trường trên. Việt Nam xuất khẩu 95% lượng giày dép sản xuất ra và thị trường Mỹ, châu Âu chiếm 70% kim ngạch của ngành nên đã chịu thiệt hại nặng nề.

Thống kê mới nhất của Bộ Công Thương cho thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt và may mặc trong 8 tháng năm 2020 ước đạt 19,25 tỷ USD, giảm 11,6% so với cùng kỳ. Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, tình hình sản xuất, xuất khẩu của toàn ngành dệt may vẫn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, nhu cầu tiêu dùng trên thế giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các hoạt động giãn cách xã hội, cùng việc thắt chặt chi tiêu tại các gia đình và chính sách hạn chế đầu tư tại các doanh nghiệp chững lại.

Theo ông Lê Tiến Trường, Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam, tìm kiếm đơn hàng trong bối cảnh này không dễ với phần lớn các doanh nghiệp dệt may, nhất là khi dịch Covid-19 bùng phát trở lại lần 2 ở nhiều nước và cả Việt Nam. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp dệt may gần như chưa có đơn hàng cho 2 quý cuối năm, với các sản phẩm có giá trị cao như veston, sơ mi cao cấp...

"Đơn hàng cho quý IV hầu như chưa có, đây là thách thức lớn cho kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may. Trong khi đơn hàng khẩu trang đã đảo chiều, ít và giá giảm đến mức chỉ vừa đủ chi phí sản xuất", ông Lê Tiến Trường chia sẻ.

Còn theo đánh giá của Hiệp hội Vận tải hàng không quốc tế, với diễn biến hiện tại của dịch bệnh Covid-19, chắc chắn nhu cầu chở khách du lịch đối với hàng không sẽ không thể đạt mức như trước khi có dịch cho đến năm 2023 hoặc 2024. Điều này có nghĩa trong 3-4 năm tới, ngành hàng không toàn cầu sẽ chỉ có một mục tiêu duy nhất là bù lỗ và khôi phục sản xuất.

Thậm chí, Hiệp hội Vận tải hàng không quốc tế còn dự báo, hiện mới chỉ là giai đoạn đầu của chặng đường dài đầy khó khăn của các hãng hàng không. Những chông gai thật sự của ngành hàng không vẫn còn ở phía trước. Và có một điều chắc chắn, hàng không sẽ không bao giờ có thể phát triển bền vững chừng nào việc đi lại quốc tế bị đóng cửa hoặc hạn chế như hiện nay.

Cần chuyển sang các mô hình chủ động và tổng thể hơn

Khi đại dịch Covid-19 xảy ra, nhiều doanh nghiệp Việt đã nhận ra mức độ lệ thuộc phức tạp và tính dễ bị tổn thương của hệ sinh thái chuỗi cung ứng hiện đại khi những đứt gãy có tác động lan truyền giữa các ngành và giữa các quốc gia với nhau. Thực tế, các thay đổi đột ngột về nhu cầu tiêu dùng cũng như sự gián đoạn trong hoạt động thương mại xảy ra từ nhiều quốc gia khiến cho tác động của đại dịch đã trở nên sâu rộng và không còn là vấn đề tạm thời đối với chuỗi cung ứng của bất kỳ một doanh nghiệp nào, mà còn trở thành vấn đề mang tầm vĩ mô, chiến lược của cả một quốc gia. Chính vì vậy, trong tương lai, việc vận hành chuỗi cung ứng sẽ cần chuyển sang các mô hình chủ động và tổng thể hơn.

Nhiều ý kiến cho rằng, là một trong số các quốc gia đầu tiên mở cửa lại nền kinh tế sau khi tạm thời kiểm soát được dịch bệnh, Việt Nam cần tận dụng lợi thế này làm nền tảng vươn lên và xây dựng chiến lược thích ứng chủ động. Đây là thời điểm đòi hỏi các doanh nghiệp phải có cái nhìn rõ ràng hơn về chuỗi cung ứng, cũng như cần đặt ra câu hỏi làm thế nào để xây dựng chiến lược thích ứng dài hạn cho doanh nghiệp thay vì chỉ trông chờ từ Chính phủ.

Có thể thấy, chuỗi cung ứng trong tương lai sẽ không chỉ xoay quanh hiệu suất và quản lý chi phí, mà sẽ dựa trên mức độ an toàn và khả năng thích ứng của chuỗi cung ứng đó. Đánh giá tình hình với tầm nhìn chiến lược và từ đó linh hoạt điều chỉnh chuỗi cung có thể sẽ mang lại lợi thế cạnh tranh lâu dài cho doanh nghiệp.

Hiểu biết sâu sắc và đa chiều hơn về vị trí trong chuỗi cung ứng là điều cần thiết đối với các doanh nghiệp trong bất cứ ngành nghề, lĩnh vực nào hiện nay. Trong đó, các doanh nghiệp cần lưu ý đến những thách thức lớn nhất đối với chuỗi cung ứng và các bên thứ ba, đòi hỏi những thay đổi cần thiết trong hệ sinh thái chuỗi cung ứng trước đây. Cụ thể như dịch vụ hậu cần và đảm bảo an ninh, nguồn nhân lực trong hệ sinh thái chuỗi cung ứng, nhà phân phối, các bên trung gian và đại lý, tình hình tài chính của nhà cung cấp, kỹ thuật số và an ninh mạng, hợp đồng và điều khoản thương mại, thuế phí... Chỉ khi các doanh nghiệp có sự quan tâm, hiểu biết và chủ động lên kế hoạch lâu dài cho những vấn đề này thì trong những bối cảnh xảy ra khủng hoảng như đại dịch Covid-19 vừa qua, mới có thể cầm cự và vượt qua, không để rơi vào tình trạng bị động dẫn đến nguy cơ đổ vỡ, phá sản.

Còn trong ngắn hạn, các doanh nghiệp cần thực hiện ngay các chương trình giám sát và ứng phó tình trạng gián đoạn chuỗi cung ứng với các quốc gia bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, tập trung xác định rủi ro để đưa ra giải pháp sản xuất, kinh doanh phù hợp. Cần cân bằng cung cầu, xây dựng thêm kho, đa dạng hóa nhà cung cấp. Đồng thời các doanh nghiệp cần đảm bảo nguồn thay thế, tuyến đường vận chuyển, hàng tồn kho, dự trữ tài chính bằng tiền mặt đủ để giảm thiểu bất kỳ sự gián đoạn nào trong thời gian tiếp theo.

Các bộ ngành cần tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp tái cơ cấu sản xuất, đẩy mạnh liên kết theo chuỗi giá trị và từng ngành hàng, mở rộng thị trường và nguồn cung ứng nguyên phụ liệu mới…

Để hỗ trợ doanh nghiệp, thời gian qua, từ phía Bộ Công Thương cũng đã nhanh chóng có những chỉ đạo các đơn vị, thương vụ Việt Nam ở nước ngoài phối hợp với các hiệp hội ngành hàng tìm kiếm các nhà phân phối, sản xuất nguyên phụ liệu nước ngoài để thông tin cho các ngành sản xuất trong nước sớm có sự kết nối, thực hiện kế hoạch cung ứng phù hợp.

Bên cạnh các chính sách hỗ trợ của nhà nước, các chuyên gia kinh tế khuyến nghị doanh nghiệp cần đa dạng hóa, đa phương các các nguồn cung ứng, thị trường xuất khẩu tránh "bỏ trứng vào một giỏ" phụ thuộc vào một thị trường và một đối tác từ nguồn nguyên liệu, sản xuất. Đây là thời điểm quan trọng để doanh nghiệp đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu cho phù hợp với năng lực sản xuất, kinh doanh.

M.L

Thủ tướng: “Sức khỏe” tài chính Việt Nam hoàn toàn có thể vượt qua Covid-19Thủ tướng: “Sức khỏe” tài chính Việt Nam hoàn toàn có thể vượt qua Covid-19
Giải “cơn khát” nguồn nhân lực ngành logisticsGiải “cơn khát” nguồn nhân lực ngành logistics
Bộ Công Thương: Dịch Covid-19 ảnh hưởng lớn tới xuất nhập khẩuBộ Công Thương: Dịch Covid-19 ảnh hưởng lớn tới xuất nhập khẩu

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 17:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 17:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,820 ▲50K 11,340
Trang sức 99.9 10,810 ▲50K 11,330
NL 99.99 10,820 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,050 ▲50K 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,050 ▲50K 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,050 ▲50K 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 17:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 17:45