Doanh nghiệp “thấm đòn” Covid-19, nhiều hệ lụy đối với nền kinh tế

18:50 | 31/08/2020

383 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Càng về cuối năm, những tác động của Covid-19 càng nhìn thấy rõ, khi số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động do ảnh hưởng của dịch bệnh vẫn tiếp tục tăng, ngân hàng đối mặt với thực tế có tiền mà không thể cho vay, kể cả khi giảm lãi suất cho vay, do thị trường rơi vào tình trạng tắc nghẽn chuỗi sản xuất và phân phối.

Nhìn chung mức tăng trưởng tín dụng trong thời gian qua khá khiêm tốn trong bối cảnh thanh khoản của toàn hệ thống dồi dào. Điều này đang phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế, có hoạt động kinh tế doanh nghiệp mới đi vay và khi đó mới có tín dụng. Doanh nghiệp không muốn vay, ngân hàng không thể cố ép.

Số liệu cập nhật tình hình kinh tế - xã hội mới nhất của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong tháng 8 có hơn 3.000 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng gần 160% so với cùng kỳ năm ngoái; hơn 3.400 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng hơn 63%; gần 4.000 doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, tăng hơn 134%.

4153-sx-khau-trang-tai-det-kim-dong-9733-2706-1583411663-1145
Số doanh nghiệp ngừng hoạt động tăng đồng nghĩa với số người thất nghiệp cũng sẽ tăng.

Còn tính trong cả 8 tháng qua, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là hơn 34.000 doanh nghiệp, tăng 70,8% so với cùng kỳ năm trước; hơn 24.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể; hơn 10.000 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể.

Trong số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong 8 tháng, thì số doanh nghiệp hoạt động về lĩnh vực kinh doanh dịch vụ chiếm đến 71%, công nghiệp và dịch vụ chiếm 28%, nông lâm nghiệp thủy sản chỉ chiếm 1%. Những con số này cũng không nằm ngoài dự đoán khi thực tế, do tác động của dịch bệnh, thị trường du lịch, khách sạn… suy giảm nặng nề trong khi đó các sản phẩm về nông nghiệp, thủy sản vẫn giữ nhịp độ tăng trưởng đều kể cả thị trường xuất khẩu.

Tình hình kinh doanh của doanh nghiệp ảm đạm, do đó, dù các tổ chức tín dụng đẩy mạnh triển khai nhiều biện pháp hỗ trợ cho khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19; triển khai các gói tín dụng ưu đãi lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp; thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay, tạm thời giữ nguyên nhóm nợ đối với các khoản vay phù hợp quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và xem xét cho vay vốn để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng tăng trưởng tín dụng vẫn không mấy sáng sủa.

Trao đổi với báo chí, một lãnh đạo cao cấp của NHNN cho biết, tính đến thời điểm hiện tại, tín dụng tăng trưởng chậm với con số hơn 4% so với cuối năm ngoái trong bối cảnh thanh khoản của toàn hệ thống dồi dào. Điều này đang phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế, có hoạt động kinh tế doanh nghiệp mới đi vay và khi đó mới có tín dụng. Doanh nghiệp không muốn vay, ngân hàng không thể cố ép.

Không khó để nhận thấy các ngân hàng rất khó khăn trong việc thúc đẩy cho vay mới. Ðơn cử, với ngành dịch vụ, trong quý II/2020, tăng trưởng ngành này sụt giảm 1,8% so với cùng kỳ (từ mức tăng 3,3% được ghi nhận trong quý I/2020) do tất cả các hoạt động dịch vụ đều giảm mạnh trong tháng 4/2020, khi toàn quốc áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội để ngăn chặn đà lây lan của Covid-19.

Số liệu của NHNN cho biết, ước tính có khoảng 2,5 triệu tỷ đồng dư nợ bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh (khoảng 30% tín dụng toàn hệ thống), điều này tiềm ẩn rủi ro với hoạt động ngân hàng. Theo lãnh đạo cao cấp NHNN, nhiệm vụ của hệ thống ngân hàng là cung cấp đủ vốn cho nền kinh tế và vốn hiện đang rất thừa, phần còn lại là sức hấp thụ vốn của nền kinh tế.

Doanh nghiệp gặp khó, không có nhu cầu mở rộng sản xuất nên cũng không có nhu cầu vay vốn ngân hàng. Và tất nhiên, khi doanh nghiệp khó khăn, không những không mở rộng mà còn thu hẹp sản xuất thì đời sống ngươi lao động khó đảm bảo, tỷ lệ thất nghiệp vì thế mà tăng cao.

Còn nhớ ít đây không lâu, Công ty giày da Huê Phong tại TP HCM đã lên kế hoạch cho 1.577 công nhân nghỉ việc vào ngày 30/8/2020. Đây là lần thứ 3 công ty Huê Phong cho công nhân ngưng việc vì Covid-19, tổng 3 lần khoảng 4.000 lao động.

Nguyên nhân là do dịch bệnh Covid-19 khiến các khách hàng chính của công ty ở châu Âu và Mỹ bị thiệt hại nặng nề dẫn tới hủy đơn đặt hàng. Dù công ty đã tìm cách khắc phục, khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng vẫn không thể xoay chuyển được tình thế.

Trường hợp Công ty giày da Huê Phong chỉ là một ví dụ điển hình. Theo số liệu từ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tính riêng trong quý 2/2020, số lao động thất nghiệp trong độ tuổi lao động (từ 15 tuổi trở lên) là khoảng 1,3 triệu người, tăng 192.800 người so với quý 1/2020 và tăng 221.000 người so với cùng kỳ năm trước.

Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động khu vực thành thị quý 2 là 4,46%, tăng 1,28 điểm phần trăm so với quý trước và 1,36 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Đây là tỷ lệ thất nghiệp cao nhất của khu vực này trong vòng 10 năm qua.

Cục Việc làm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tính đến kịch bản xấu nhất là thời gian tới, số lao động mất việc làm có thể tăng khoảng 60.000 đến 70.000 mỗi tháng, tập trung chính ở các lĩnh vực như du lịch, hoạt động dịch vụ lưu trú và ăn uống, xây dựng, vận tải, chế biến chế tạo... Số doanh nghiệp bị ảnh hưởng sẽ lên đến 70%, trong khi số lao động bị ngừng việc, giãn việc, giảm việc có thể lên tới 3,5-5 triệu người.

Dịch bệnh đang lây lan mạnh ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có những nước là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU), Mỹ. Điều này dẫn đến tình trạng "đứt gãy" chuỗi cung ứng nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp hoặc đình trệ. Khi các công ty không có nguyên liệu sản xuất và đơn đặt hàng thì công nhân sẽ không có việc làm, thất nghiệp.

Covid-19 cũng khiến hàng loạt nhà máy, xí nghiệp trong nước phải tạm dừng hoạt động. Giãn cách xã hội làm cho không chỉ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh mà du lịch, nhà hàng, giáo dục... cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Lao động những ngành này vì vậy đối mặt với rất nhiều khó khăn.

Đánh giá những tác động tiêu cực của dịch bệnh lên nền kinh tế, mà cụ thể là "sức khỏe" của hàng nghìn doanh nghiệp, đời sống của hàng triệu người dân, Chính phủ đã kịp thời tung ra các gói hỗ trợ theo Nghị quyết 42 của Chính phủ và Quyết định 15 của Thủ tướng với tổng số tiền trong gói hỗ trợ là 62.000 tỷ đồng và một số gói hỗ trợ khác. Tuy nhiên, với số tiền này sẽ là như "muối bỏ bể" nếu số doanh nghiệp ngừng hoạt động, số lao động thất nghiệp không ngừng tăng.

M.L

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 115,500 ▼2500K 118,200 ▼1800K
AVPL/SJC HCM 115,500 ▼2500K 118,200 ▼1800K
AVPL/SJC ĐN 115,500 ▼2500K 118,200 ▼1800K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,770 ▼200K 11,100 ▼150K
Nguyên liệu 999 - HN 10,760 ▼200K 11,090 ▼150K
Cập nhật: 15/05/2025 22:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
TPHCM - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Hà Nội - PNJ 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Hà Nội - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Đà Nẵng - PNJ 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Đà Nẵng - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Miền Tây - PNJ 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Miền Tây - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Giá vàng nữ trang - PNJ 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Giá vàng nữ trang - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 110.500 ▼2500K
Giá vàng nữ trang - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 110.500 ▼2500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 110.500 ▼2300K 113.000 ▼2300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.390 ▼2300K 112.890 ▼2300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 109.700 ▼2280K 112.200 ▼2280K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.470 ▼2280K 111.970 ▼2280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.400 ▼1730K 84.900 ▼1730K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.760 ▼1340K 66.260 ▼1340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.660 ▼960K 47.160 ▼960K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.110 ▼2110K 103.610 ▼2110K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.580 ▼1400K 69.080 ▼1400K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.100 ▼1500K 73.600 ▼1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.490 ▼1560K 76.990 ▼1560K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.030 ▼860K 42.530 ▼860K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.940 ▼760K 37.440 ▼760K
Cập nhật: 15/05/2025 22:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,840 ▼250K 11,290 ▼250K
Trang sức 99.9 10,830 ▼250K 11,280 ▼250K
NL 99.99 10,400 ▼350K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,400 ▼350K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,050 ▼250K 11,350 ▼250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,050 ▼250K 11,350 ▼250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,050 ▼250K 11,350 ▼250K
Miếng SJC Thái Bình 11,550 ▼250K 11,820 ▼180K
Miếng SJC Nghệ An 11,550 ▼250K 11,820 ▼180K
Miếng SJC Hà Nội 11,550 ▼250K 11,820 ▼180K
Cập nhật: 15/05/2025 22:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16124 16391 16973
CAD 18016 18291 18906
CHF 30347 30722 31354
CNY 0 3358 3600
EUR 28433 28700 29727
GBP 33655 34044 34975
HKD 0 3190 3392
JPY 171 175 181
KRW 0 17 19
NZD 0 14966 15551
SGD 19447 19727 20243
THB 694 757 810
USD (1,2) 25673 0 0
USD (5,10,20) 25711 0 0
USD (50,100) 25739 25773 26113
Cập nhật: 15/05/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,750 25,750 26,110
USD(1-2-5) 24,720 - -
USD(10-20) 24,720 - -
GBP 34,003 34,095 35,006
HKD 3,262 3,271 3,371
CHF 30,472 30,567 31,418
JPY 174.21 174.52 182.31
THB 740.67 749.81 801.77
AUD 16,439 16,498 16,942
CAD 18,293 18,352 18,847
SGD 19,625 19,686 20,307
SEK - 2,624 2,715
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,830 3,963
NOK - 2,455 2,541
CNY - 3,558 3,655
RUB - - -
NZD 14,967 15,106 15,546
KRW 17.23 17.97 19.31
EUR 28,621 28,643 29,863
TWD 776.47 - 939.46
MYR 5,655.61 - 6,380.11
SAR - 6,797.05 7,154.54
KWD - 82,095 87,292
XAU - - -
Cập nhật: 15/05/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,750 25,760 26,100
EUR 28,442 28,556 29,659
GBP 33,804 33,940 34,910
HKD 3,257 3,270 3,376
CHF 30,302 30,424 31,321
JPY 173.12 173.82 181
AUD 16,357 16,423 16,953
SGD 19,607 19,686 20,224
THB 756 759 792
CAD 18,237 18,310 18,819
NZD 15,053 15,560
KRW 17.68 19.49
Cập nhật: 15/05/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25753 25753 26113
AUD 16289 16389 16956
CAD 18197 18297 18850
CHF 30550 30580 31468
CNY 0 3561.3 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28698 28798 29573
GBP 33949 33999 35120
HKD 0 3270 0
JPY 174.18 175.18 181.71
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15059 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19581 19711 20443
THB 0 721.7 0
TWD 0 845 0
XAU 11600000 11600000 11800000
XBJ 10500000 10500000 11800000
Cập nhật: 15/05/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,750 25,800 26,135
USD20 25,750 25,800 26,135
USD1 25,750 25,800 26,135
AUD 16,380 16,530 17,598
EUR 28,785 28,935 30,110
CAD 18,138 18,238 19,558
SGD 19,668 19,818 20,300
JPY 174.96 176.46 181.11
GBP 34,058 34,208 34,995
XAU 11,548,000 0 11,822,000
CNY 0 3,446 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 15/05/2025 22:00